PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
NIỆM PHẬT A DI ĐÀ
Toàn Không
NIỆM PHẬT A DI ĐÀ
Toàn Không
LỜI DẪN
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng
sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức
Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu
hành tới ngày thành Phật.
Do sự mong muốn của một số độc giả nên tôi viết ra
những điều căn bản của Pháp Môn Tịnh Độ và của việc Hộ Niệm để giúp
người tu biết làm thế nào để được vãng sanh, làm sao biết một người khi
chết được vãng sinh hay không; có mấy phương thức tu
Tịnh Độ, có bao nhiêu cách niệm Phật, và người tu phải làm những gì
để đạt kết quả mỹ mãn?
Mong rằng: người tu Pháp Môn Niệm Phật A Di Đà nghiền
ngẫm thật kỹ, ghi nhớ những điều phân tích khuyến tấn trong cuốn cẩm
nang này trước khi bắt đầu thực hành, và về sau thỉnh thoảng nên đọc
lại để được nhắc nhở.
Mặc dù trong sách nêu ra rất nhiều điều, nhưng chưa
nói hết được mọi chi tiết, cách diễn đạt văn tự còn khuyết điểm,
mong các vị Thiện tri thức bỏ qua cho, người viết muôn phần thành thật
đa tạ.
Sau chót, chân thành cảm tạ và xin phép qúy Thiện tri thức,
Phật tử, v.v... đã viết, dịch, in, ấn tống, xuất bản Kinh sách, đăng
trên mạng, nhờ đó quyển sách “Pháp Môn Tịnh Độ” được thành hình đầy đủ.
Milpitas, Cali. USA ngày 16 - 10 - 2011
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật.
Toàn Không Đỗ Đăng Tiến
DẪN NHẬP
TỊNH ĐỘ LÀ GÌ?
Tịnh là im lặng yên ổn trong sạch,
Độ là cứu giúp, Tịnh Độ từ chữ Phạn: Buddhasetra là Phật độ, cõi Phật, cõi thanh tịnh.
Trong hư không bao la vô biên: có vô lượng cõi nước
(hành tinh), trong số đó có cõi Tịnh, có cõi Uế (như Sa Bà). Chúng
sinh có tâm tịnh sinh về cõi Tịnh, có tâm uế sinh về cõi uế; nếu sinh về
cõi uế thì nghiệp chướng mỗi ngày một sâu nặng, khó
thành tựu pháp lành; còn sinh về cõi Tịnh thì nghiệp chướng mỗi ngày
một tiêu trừ, dễ thành tựu pháp lành; ngay cả các cõi Tịnh độ cũng có
nhiều sai biệt, trong đó cõi thù thắng nhất là thế giới
Tây Phương Cực Lạc.
Để được đầy đủ và có thứ lớp, trước hết cần
lược qua về ba Kinh căn bản của Tịnh Độ Tông, sau bàn đến phương
cách tu, các điều nên biết và chuẩn bị. Sau chót nói đến cách thực hành
hàng ngày của người tu Tịnh Độ. Chúng ta cùng theo
dõi:
MỤC 1:
LƯỢC KINH A DI ĐÀ:
I) - CÕI TỊNH ĐỘ TRANG NGHIÊM:
Một thời Đức Phật ngự tại Tịnh xá Kỳ Hoàn, vườn Cấp
Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo;
lúc đó, có vô số Bồ Tát, Chư Thiên, Thiên Long Bát Bộ và tứ chúng tham
dự.
Bấy giờ đức Phật bảo Tỳ Kheo Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ
đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật (1) (xa quá 10 tỷ giải Ngân Hà), có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di
Đà (2) hiện nay đang nói pháp.
Xá Lợi Phất, cõi đó vì sao tên là Cực lạc?
Vì chúng sanh trong cõi Cực Lạc không có những sự
khổ, chỉ hưởng những điều vui; trong cõi đó có bảy từng bao lơn, bảy
từng mành lưới, bẩy từng hàng cây, đều bằng bảy báu bao bọc giáp vòng.
Lại có ao bằng bẩy báu, trong ao đầy nước đủ
tám công đức (3); đáy ao thuần dùng kim cương làm cát trải
trên đất bằng vàng. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp thành những thềm đường ở
bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều
nghiêm sức bằng bảy báu là: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích
châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh
sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc
trắng thời ánh sáng trắng, nhiệm mầu thơm mát trong sạch.
Xá Lợi Phất, cõi Cực Lạc thành tựu công đức trang
nghiêm như thế.
Trong cõi của đức Phật đó, thường trỗi (vang lên)
nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời (4) rải hoa trời Mạn đà la; chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy giỏ đựng những hoa thơm đem cúng dường mười
muôn ức đức Phật ở mười phương, đến giờ ăn liền trở về bản quốc ăn cơm xong đi kinh hành (5).
Xá Lợi Phất, cõi Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm
như thế.
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI NÓI KINH
Lại nữa, cõi đó thường có những giống chim mầu sắc
xinh đẹp lạ thường, như chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-vũ, Xá-lợi,
Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời hót
tiếng hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như Năm căn (6), Năm
lực (7), Bảy giác Chi (8), Tám thánh đạo (9), v.v... Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó là do tội báo
sinh ra, vì cõi Cực Lạc không có ba đường ác, Xá-Lợi-Phất, cõi đó
tên đường ác còn không có huống là có sự ác sao? Những giống chim đó là
do đức Phật A Di Đà muốn cho tiếng pháp được tuyên lưu
(bày tỏ chuyền đi) mà biến hóa ra đó thôi.
Trong cõi Cực Lạc, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và
động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, ví như trăm ngàn thứ
nhạc đồng hòa chung; người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sinh lòng niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất: cõi Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm
như thế.
II) - DIỆU THẮNG CỦA PHẬT A DI ĐÀ:
Xá-Lợi-Phất: Ông nghĩ sao, Đức Phật đó vì sao hiệu là
A Di Đà?
Vì đức Phật đó có hào quang sáng chói soi suốt vô
lượng các cõi mười phương không bị chướng ngại (vô lượng quang); Đức
Phật đó và nhân dân của Ngài sống vô lương A Tăng tỳ kiếp (vô lượng
thọ). Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã 10 kiếp rồi
(1 kiếp = 16 triệu 800 nghìn năm).
Lại trong cõi nước Cực Lạc có vô lượng Thanh Văn đệ
tử đều là bậc A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết hết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như thế.
Xá Lợi Phất, cõi Cực Lạc thành tựu công đức trang
nghiêm như thế.
Lại nữa, cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sinh đến
đó đều là bậc bất thóai chuyển (10) (không bị đọa nữa); trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ (chuẩn bị thành Phật), số đó rất đông,
chẳng phải tính đếm mà biết hết được, chỉ có thể dùng vô số a-tăng-kỳ để nói thôi!
Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phát
nguyện cầu sinh sang cõi nước đó, vì sao? Vì: được cùng với các bậc Thượng thiện nhân ở cùng một chỗ.
III) - NHÂN CỦA VÃNG SINH:
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn
phước đức nhân duyên mà được sinh sang cõi đó.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức
Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật
đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày,
hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không
tán loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung (chết) được đức Phật A Di
Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết
tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước
Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
Xá Lợi Phất, ta thấy có những lợi ích ấy nên nói
những lời như thế, nếu có chúng sinh nào nghe những lời trên, nên phát nguyện sinh sang cõi Cực Lạc.
IV) - CHƯ PHẬT KHUYÊN TIN:
Nói xong, đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
-
Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức
Phật A
Di Đà, thì hằng hà sa số chư Phật ở khắp sáu Phương Đông Tây Nam Bắc
Trên Dưới đều ở tại nước các Ngài, hiện ra tướng lưỡi rộng dài (nói
chân thật) trùm khắp cõi tam thiên đại thiên (1 cõi Phật)
mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin xưng
tán công đức không thể nghĩ bàn của Kinh: “Nhất Thiết (một lòng) Chư
Phật Sở Hộ (độ cho) Niệm (nhớ) Này", vì sao tên là Kinh
Nhất-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe Kinh
này, và nghe danh hiệu của đức Phật A Di Đà mà thọ trì, thì những
thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm,
đều được không thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng
Chính Đẳng Chính Giác (bậc giác ngộ hiểu biết chân chính, không còn bậc nào hơn được nữa).
Cho nên, các ông đều nên tin nhận lời của Ta và của
Chư Phật nói; nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát
nguyện muốn sinh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, những người ấy đều
được không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, thời đã sinh sang, đang sanh sang, hoặc sẽ sinh sang.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân,
nếu người nào có lòng tin thì nên phát nguyện sinh về cõi nước kia.
Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di
Đà, thời các đức Phật cũng ngợi khen công đức chẳng thể
nghĩ bàn của Ta.
GIẢNG GIẢI:
Đọc Kinh trên, chúng ta thấy đức Phật nói rất rõ, duy
có một số điểm cần tìm hiểu thêm, đó là:
1) – Cõi Cực Lạc: Người đời đều nghi ngờ cõi Cực Lạc ở xa ngoài mười muôn ức cõi Phật quá xa, lúc sắp lâm
chung chỉ trong khoảnh khắc e khó đến được, làm sao hiểu được điều này?
Trong Kinh nói: Tâm bao hư không trùm khắp pháp giới, thì
mười muôn ức cõi Phật chỉ ở trong tâm ta, nào có xa xôi gì? Khoảnh khắc mạng chung sinh trong tâm ta, nào có khó khăn gì?
Vả lại, gọi mười muôn ức cõi nước là đối với cái nhìn của phàm
phu, tâm trong sinh tử mà nói; nếu chúng sinh thành tựu Tịnh nghiệp,
lúc lâm chung tâm an định tức là tâm thọ sinh Tịnh độ, vừa khởi niệm
liền được vãng sinh. Vì thế cho nên Kinh nói: “Mười muôn
ức cõi nước chỉ trong khoảnh khắc liền đến, tự tâm vốn huyền diệu
vậy!”.
2) – Phật A Di Đà: Dịch từ chữ Phạn (Sanskrit): Amitabha Buddha: Buddha
dịch âm Hán là Giác là Phật, Amita dịch âm là A Di Đà nghĩa là vô lượng, bha là Quang, Amitabha là vô lượng ánh sáng.
3) – Nước tám công đức là gì? Đó là:
1- Nước trong vắt không vẩn đục. 2- Nước mát dịu. 3- Nước thơm ngon ngọt. 4-
Nước mềm mại nhẹ nhàng. 5- Nước thấm nhuần. 6- Nước an hòa lặng lẽ. 7- Nước trừ đói khát. 8- Nước nuôi lớn các căn.
4) – Sáu thời là gì?
Ngày 6 thời, đêm 6 thời, ngày có các loại chim hót
hòa nhã; Trung Hoa chia ra đêm năm canh, ngày sáu khắc.
5) – Đi kinh hành là gì?
Đi kinh hành: Là đi bộ cho giãn gân cốt sau khi ngồi thiền hay niệm Phật lâu, vừa đi vừa
niệm, quán tưởng, tham thiền, v.v..., cũng là kinh hành.
6) – Năm Căn là gì?
Năm Căn là năm vấn đề căn bản, năm cội gốc, năm nguồn căn
bản cho việc tu hành, đó là Tín Căn, Tinh Tấn Căn, Niệm Căn (nhớ nghĩ), Định Căn (tịch tĩnh), và Huệ Căn (trí tuệ).
7) – Năm Lực là gì?
Năm Lực là năm sức mạnh mẽ, là năm năng lực sức lực; Năm
Căn ví như năm ngón của bàn tay, còn Năm Lực ví như sức co ruỗi của
các ngón tay để cầm, nắm, cấu véo, bóp, xoa. Năm Lực gồm có: Tín Lực,
Tinh Tấn Lực, Niệm Lực, Định Lực, và Huệ Lực.
8) – Bảy Giác Chi là gì?
Giác chữ Phạn là Boddhi (Bồ Đề) là giác ngộ; Chi là nhánh,
là bảy loại tu tuần tự sẽ đạt đến đạo qủa, còn gọi là “Bảy Giác
Phần”, bảy phương tiện thực hành sẽ giải thoát. Bảy giác chi gồm có:
Niệm Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi (lựa chọn), Tinh Tấn Giác
Chi, Hỷ Giác Chi, Khinh An Giác Chi, Định Giác Chi, và Xả Giác Chi.
9) – Tám Chính Đạo là gì?
Tám Chính Đạo còn được gọi là Tám Thánh Đạo là con đường
giải thoát, gồm có tám nhánh là Chính kiến (nhìn biết như thật),
Chính tư duy (suy nghĩ đúng như thật), Chính ngữ (nói năng đúng sự
thật), Chính nghiệp (hành động phải đạo), Chính mệnh (nghề
nghiệp chân chính), Chính tinh tấn (siêng năng cần mẫn), Chính niệm
(nhớ nghĩ không quên), Chính định (thanh tịnh sáng suốt); thiếu một
trong tám nhánh không thành Bát chính đạo.
Do những lời nguyện trong khi tu hành, đức Phật A Di
Đà đã trang nghiêm cõi Tịnh độ của Ngài thù thắng nên mới có đủ thứ
như các hàng cây, lưới báu, cung điện, các loài chim, những âm thanh hòa
tấu vi diệu, khiến người nghe được tự nhiên niệm Phật
niệm Pháp niệm Tăng.
Nếu ai nghe danh hiệu Phật A Di Đà tin tưởng niệm
danh hiệu Ngài từ một ngày cho đến bảy ngày, một lòng không tán
loạn. Thời người đó đến lúc qua đời được đức Phật A Di Đà cùng hàng
Thánh chúng hiện thân trước người đó để tiếp rước về cõi Cực
Lạc.
10)- Bậc bất thoái chuyển:
Khi được sinh sang Tây phương Cực Lạc, rồi tiếp tục
tu hành cho đến ngày thành Phật, nên không bị đoạ. Điều này có năm
nhân duyên khiến người vãng sinh không thoái chuyển, đó là:
1. Do nguyện lực của Phật A-di-đà thường thâu nhiếp giữ
gìn.
2. Do ánh sáng của Phật luôn soi chiếu, tâm Bồ-đề thường tăng
trưởng.
3. Nước, chim, cây rừng, gió reo, nhạc tấu đều thuyết giáo nghĩa
khổ, không; người nghe những pháp ấy thường khởi lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
4. Cõi nước Cực Lạc toàn là bậc Bồ-tát, Thượng nhân làm bạn lành,
không có cảnh duyên xấu ác, không có quỷ thần, tà ma; các thứ phiền não Tam độc, v.v… hoàn toàn không sinh khởi.
5. Do sống lâu mãi mãi, đồng với Chư Phật và Chư
Bồ-tát.
TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC TRANG NGHIÊM
MỤC 2:
LƯỢC KINH
PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ:
I) – KINH VÔ LƯỢNG THỌ:
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI NÓI KINH
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành
La Duyệt, nước Ma Kiệt cùng 1250 Tỳ Kheo, có đông đảo chúng Bồ Tát,
các Vua Trời, và Thiên Long Bát Bộ. Lúc bấy giờ sắc diện của đức Thế Tôn
vui vẻ tươi sáng. Tôn giả A Nan Đà từ chỗ ngồi đứng
lên, quỳ gối phải chắp tay bạch đức Phật rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sắc diện của Ngài vui vẻ tươi sáng chưa từng được
thấy, có phải Ngài nghĩ nhớ đến Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chăng?
Ðức Phật dạy:
- Lành thay, lành thay! Này A Nan: Ông phát trí tuệ hỏi được Như Lai việc ấy,
Ông là Ðại Sĩ hi hữu như hoa Ưu Ðàm (1) xuất hiện ở thế gian, có lòng vì lợi ích chúng sanh, nên thưa hỏi việc ấy.
Nầy A Nan, Như Lai Chính Đẳng Chính Giác hay khai thị
vô lượng tri kiến, tại sao? Vì Như Lai tri kiến (biết thấy) vô
chướng vô ngại, Như Lai, nếu muốn ở thế gian, có thể ở đến vô lượng vô
số trăm ngàn ức na do tha kiếp (vô số kiếp) mà thân thể của
Như Lai và các căn vẫn không tổn giảm, tại sao? Vì Như Lai được tam
muội (tịch tịnh) tự tại rốt ráo; này A Nan, Ông hãy lắng nghe, khéo suy
nghĩ, Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Tôn giả A Nan thưa:
- Vâng! Bạch Thế Tôn! Con mong muốn được nghe đức Thế Tôn chỉ dạy.
Ðức Phật bảo:
-
Thuở xưa, quá a tăng kỳ vô số đại kiếp, có Phật xuất thế hiệu là Nhiên
Ðăng
Như Lai giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh. Sau đó có Quang Viễn
Phật, Nguyệt Quang Phật, Chiên Ðàn Hương Phật, v.v... hết thảy 52 vị
Phật nối tiếp ra đời.
Kế sau đó có đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn (10 tên hiệu của chư Phật (3)).
Lúc đó có Quốc Vương nghe đức Phật thuyết pháp lòng
rất vui đẹp phát tâm Vô thượng Bồ đề, từ bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ
Kheo hiệu là Pháp Tạng, đến cúi lễ đức Phật Thế Tự Tại Vương, đi quanh
bên phải ba vòng, quỳ chắp tay nói kệ ca tụng Phật xong
bạch:
“-
Bạch đức Thế Tôn, con đã phát tâm Vô thượng Chính giác, xin đức Thế Tôn
nói
kinh pháp cho, con sẽ tu hành nhiếp lấy cõi Phật vô lượng thanh tịnh
trang nghiêm. Khiến con mau thành bực Chánh giác nhổ hết gốc rễ sinh tử
khổ lụy.”
Thế Tự Tại Vương Như Lai nói với Tỳ Kheo Pháp Tạng
rằng: “- Công hạnh tu hành trang nghiêm Phật độ, ông tự biết lấy.”
Tỳ Kheo Pháp Tạng thưa:
“- Bạch đức Thế Tôn, Nghĩa ấy sâu rộng chẳng phải cảnh giới của con, ngưỡng
mong đức Thế Tôn chỉ dạy công hạnh Tịnh độ của Chư Phật. Con được nghe rồi sẽ y theo tu hành để hoàn thành sở nguyện.”
Lúc ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương biết Tỳ Kheo Pháp
Tạng có chí nguyện sâu rộng liền giảng dạy:
“-
Ví như biển cả kia, có một người lấy đấu múc nước trải qua vô lượng
kiếp,
còn có thể cạn đến đáy, được châu báu vi diệu; có người chí tâm tinh
tiến cầu đạo chẳng thôi, tất sẽ kết quả, có nguyện gì mà chẳng được
thành.”
Rồi đức Thế Tự Tại Vương Phật nói rộng hai trăm mười
ức quốc độ Chư Phật (21 triệu cõi Phật), những là sự thiện ác của
hàng trời người, những sự xấu tốt của các cõi nước, và ứng theo tâm
nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng mà hiện rõ ra cho thấy
cả.
Nghe và thấy các quốc độ nghiêm tịnh, Tỳ Kheo Pháp
Tạng phát khởi thệ nguyện thù thắng vô thượng, tâm Ngài tịch tịnh,
trí rỗng rang, tất cả thế gian không có ai bằng; trọn đủ năm kiếp, Ngài
suy xét nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh cõi
Phật.
Ngài A Nan thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, Người cõi Phật xưa ấy thọ mạng bao lâu?
Ðức Phật nói:
- Nầy A Nan, Ðức Phật Thế Tự Tại Vương thọ mạng bốn mươi hai kiếp.
Thuở ấy, Tỷ Kheo Pháp Tạng nhiếp lấy công hạnh thanh
tịnh trang nghiêm hai trăm mười ức cõi Phật và tu tập xong, Ngài đến
trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai cúi lạy chân Phật, đi quanh bên phải
ba vòng chắp tay đứng bạch rằng: “- Bạch đức Thế Tôn
con đã nhiếp trì công hạnh trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.”
Ðức Thế Tự Tại Vương Như Lai nói: “- Nay Ông nên
trình bày chi tiết, Ông phải biết phát khởi đúng lúc, và làm vui đẹp
tất cả chúng sinh; Bồ Tát tu hành pháp ấy thì sẽ đầy đủ vô lượng đại
nguyện.”
Tỳ Kheo Pháp Tạng thưa:
“- Bạch Ðức Thế Tôn, con mong được xét soi, con sẽ trình rõ những điều phát
nguyện sau đây:”
GIẢNG GIẢI:
1)- Vô lượng Thọ: Dịch từ chữ Phạn (Sanskrit): Amitayus là sống vô cùng lâu
dài, như vài chục tỷ năm.
2)- Hoa Ưu Đàm: Dịch từ chữ Phạn (Sanskrit): Udumbara dịch nghĩa là Linh thụy, là điềm lành linh
ứng; hoa này khó thấy, rất quý hiếm.
3)- Nghĩa 10 danh hiệu của Chư Phật như sau:
01 - Như Lai: Bậc Chính Đẳng Chính Giác, Phật vốn không từ đâu lại và cũng chẳng đi về đâu, đó là Như
Lai.
02 - Ứng Cúng: Đầy đủ chính pháp vi diệu, xứng đáng hưởng cúng dường của Người, và Trời.
03 - Chính Biến Tri: Dịch theo âm là Tam Miểu Tam Phật Đà, nghĩa là biết rõ hai đế lý: Lý thế gian (Thế đế), là
lý tương đối, và lý chân thật (Chân đế) là lý tuyệt đối bình đẳng.
04 - Minh Hạnh Túc: Giữ gìn tịnh giới thanh tịnh, đầy đủ Tam Minh (Túc mệnh minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận
minh).
05 - Thiện Thệ: Không còn sinh trong ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc giới nữa.
06 - Thế Gian Giải: Là biết hết thế gian nhân sinh và vũ trụ.
07 - Vô Thượng Sĩ: Đấng tối cao không ai vượt qua.
08 - Điều Ngự Trượng Phu: Biết rõ phương tiện điều phục chúng sinh.
09 - Thiên Nhân Sư: Khiến Trời Người không khởi lòng khiếp sợ, giáo hóa cho lìa khổ được vui.
10 - Phật Thế Tôn: Bậc giác ngộ được người và Trời tôn kính.
II) - BỐN MƯƠI TÁM ĐẠI NGUYỆN
Của Bồ Tát Pháp Tạng, tức Phật A Di Đà:
01). Khi tôi tu thành Phật, cõi nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì tôi không lên
ngôi chính giác (thành Phật).
02). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi sau khi mạng chung còn phải đọa vào ba
đường ác thì tôi không lên ngôi chính giác.
03). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu không có thân màu vàng óng ánh thì
tôi không lên ngôi chính giác.
04). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu còn có kẻ xấu người đẹp thì tôi
không lên ngôi chính giác (mọi người đều đẹp).
05).
Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước
tôi nếu chẳng biết túc mệnh thông (biết vô số đời về trước), tối
thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha (vô số, vô lượng)
kiếp, nếu chẳng được vậy, tôi không lên ngôi chính
giác.
06). Khi
tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu chẳng có thiên nhãn
(nhìn thấu
suốt không ngăn ngại), tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi
nước chư Phật, nếu chẳng được vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
07). Khi
tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu chẳng có thiên nhĩ
(nghe thấu suốt
không ngăn ngại), thì cũng nghe và thụ trì trăm ngàn ức na do tha
lời thuyết pháp của chư Phật. Nếu chẳng được vậy, tôi không lên ngôi
chính giác.
08). Khi
tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu chẳng được tha tâm
thông (biết ý
nghĩ của người khác), thì cũng biết tâm niệm của chúng sanh trong
trăm ngàn ức na do tha thế giới; nếu chẳng được vậy, tôi không lên ngôi
chính giác.
09). Khi
tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu chẳng được thần túc
(biến hóa vô
lường), thì cũng khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha cõi
nước Phật. Nếu chẳng được vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
10). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu sinh lòng tham chấp thân thể (chấp
ngã) thì tôi không lên ngôi chính giác.
11). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu chẳng được an trụ chính định (tịch
tịnh) thì tôi không lên ngôi chính giác.
12). Khi tôi tu thành Phật, nếu ánh sáng còn bị hạn chế, chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha
(soi thấu 10 phương) cõi nước chư Phật thì tôi không lên ngôi chính giác.
13). Khi tôi tu thành Phật, mệnh sống còn có hạn lượng, tối thiểu cũng thọ đến trăm ngàn ức na
do tha kiếp (vô lượng kiếp); nếu chẳng được vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
14). Khi
tôi tu thành Phật, hàng Thinh Văn trong cõi nước tôi không thể tính đếm
hết được, cho
đến chúng sinh trong cõi Ðại Thiên (1 tỉ mặt trời) thành bực Duyên
Giác cùng nhau đếm suốt trăm nghìn kiếp mới hết; nếu chẳng như vậy, tôi
không lên ngôi chính giác.
15). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi thọ mệnh không hạn lượng (sống vô
lượng thọ), nếu chẳng như vậy tôi không lên ngôi chính giác.
16). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu còn nghe danh từ bất thiện (việc
ác) thì tôi không lên ngôi chính giác.
17). Khi tôi tu thành Phật, mười phương vô lượng Chư Phật nếu chẳng ngợi khen xưng tụng danh
hiệu của tôi thì tôi không lên ngôi chính giác.
18). Khi tôi tu thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm muốn sinh về cõi nước tôi,
chỉ niệm danh hiệu tôi cho đến mười niệm; nếu chẳng được như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
19). Khi tôi tu thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát tâm Bồ đề (tỉnh thức, giác ngộ, tâm
Phật), tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn
sanh về cõi nước tôi. Nếu lúc mạng chung, tôi và đại chúng không vây
quanh hiện ra trước mặt người ấy, thì tôi không lên ngôi
chính giác.
20). Khi tôi tu thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ
tôi, tu các công đức, cầu vãng sinh về cõi nước tôi mà chẳng được toại nguyện, tôi không lên ngôi chính giác.
21). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi nếu chẳng đầy đủ ba mươi hai tướng đại
nhân (tướng tốt đặc biệt) thì tôi không lên ngôi chính giác.
22). Khi
tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở cõi nước khác sinh về cõi nước tôi đều
đến bực nhứt
sinh bổ xứ (một đời thành Phật). Trừ người tự nguyện hóa độ chúng
sanh, qua các cõi nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười
phương, khai hóa vô lượng chúng sinh khiến họ ở nơi đạo vô
thượng, vượt công hạnh của bậc thông thường, hiện tiền tu công đức
Phổ Hiền (trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt);
nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính
giác.
23). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường Chư
Phật mười phương, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng cõi Phật thì tôi không lên ngôi chính giác.
24). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi khi ở trước chư Phật hiện công đức
mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi không lên ngôi chính giác.
25). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát trong nước tôi nếu chẳng thể diễn nói Nhầt Thiết Trí
(trí sáng suốt biết mọi việc) thì tôi không lên ngôi chính giác.
26). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát trong nước tôi nếu chẳng được thân Kim Cương Na la Diên
(thân bất hoại) thì tôi không lên ngôi chính giác.
27).
Khi tôi tu thành Phật, người dân và tất cả vạn vật
trong cõi nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt
tột diệu không ai lường biết hết được, dù là có Thiên nhãn mà tính đếm
được hết danh số ấy thì tôi không lên ngôi chính
giác.
28). Khi tôi tu thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi, dù người công đức ít nhất cũng thấy biết đạo
tràng có màu sáng vô lượng, cao bốn trăm muôn dặm (4triệu), nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
29). Khi tôi tu thành Phật, nếu ai trong cõi nước tôi đọc tụng thọ trì diễn thuyết Kinh Pháp mà
chẳng được trí huệ biện tài thì tôi không lên ngôi chính giác.
30). Khi tôi tu thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi
không lên ngôi chính giác.
31). Khi tôi tu thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng thế giới chư Phật
mười phương, như gương sáng soi hiện hình; nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
32). Khi
tôi tu thành Phật, từ mặt đất cho đến những cung điện, lâu đài, ao
nước, cây hoa, tất
cả vạn vật trong cõi nước tôi đều toàn bằng châu báu, trăm ngàn thứ
hương hoa xinh đẹp kỳ lạ. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười
phương, các Bồ Tát ngửi mùi hương ấy đều tu hạnh của Phật.
Nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
33). Khi tôi tu thành Phật, chúng sanh trong vô lượng thế giới mười phương, được hào quang tôi
chiếu đến, thân họ được nhẹ nhàng khoan khoái dễ chịu; nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
34). Khi
tôi tu thành Phật, chúng sanh trong vô lượng thế giới mười phương nghe
danh hiệu tôi
trong khi tu hành, nếu chẳng được Vô Sinh Pháp Nhẫn (thể nhập lý vô
sinh) cùng các môn Thần chú, tôi không lên ngôi chính giác.
35). Khi
tôi tu thành Phật, hàng nữ nhân trong vô lượng thế giới mười phương
nghe danh hiệu tôi
vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề, nhàm chán thân nữ; nếu sau khi chết
còn sinh lại thân người nữ, tôi không lên ngôi chính giác.
36). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát trong vô lượng thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi,
thường tu phạm hạnh (khuôn phép) cho đến thành Phật. Nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
37). Khi
tôi tu thành Phật, hàng Trời Người trong vô lượng thế giới mười phương
nghe danh hiệu
tôi, tin ưa vui mừng, cúi đầu vái lạy, năm vóc gieo xuống đất, tu
hạnh Bồ Tát, được chư Thiên và người đời kính trọng; nếu chẳng như vậy,
tôi không lên ngôi chính giác.
38). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi muốn có y phục liền tùy nguyện hiện
đến trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt, tôi không lên ngôi chính giác.
39). Khi tôi tu thành Phật, người dân trong cõi nước tôi hưởng thụ sung sướng nếu chẳng như ý,
tôi không lên ngôi chính giác.
40). Khi tôi tu thành Phật, Bồ Tát cõi nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng cõi nước Phật mười
phương liền được toại nguyện; nếu chẳng được vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
41). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc
thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ tốt đẹp. tôi không lên ngôi chính giác.
42). Khi
tôi tu thành Phật, chúng Bồ Tát ở mười phương thế giới nghe danh hiệu
tôi thảy đều
chứng được Giải Thoát Tam Muội (tịch tịnh), khoảng một suy nghĩ,
cúng dường vô lượng chư Phật mà không mất chánh định; nếu chẳng như vậy,
tôi không lên ngôi chính giác.
43). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi, sau khi mệnh
chung được sinh vào nhà tôn quý; nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
44) . Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn
hở, tu hạnh Bồ Tát, đầy đủ công đức; nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
45). Khi
tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi
thảy đều chứng
được các thứ Chính Định, ở trong Chính Định ấy đến lúc thành Phật
thường thấy vô lượng chư Phật. Nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi
chính giác.
46). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở trong cõi nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn
được nghe pháp nào liền tự nhiên được nghe pháp ấy; nếu chẳng như vậy, tôi không lên ngôi chính giác.
47). Khi tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi, nếu chẳng
được đến bực Bất Thoái Chuyển (bậc Đẳng Giác), tôi không lên ngôi chính giác.
48). Khi
tôi tu thành Phật, các Bồ Tát ở mười phương thế giới nghe danh hiệu
tôi, nếu chẳng
được đệ nhứt Âm Hưởng Nhẫn (thể nhập mọi tiếng nói), đệ nhị Nhu Hòa
Nhẫn (thể nhập hoà đồng) và đệ tam Vô Sinh Pháp Nhẫn (thể nhập lý vô
sinh), thì tôi không lên ngôi chính giác.
GIẢNG GIẢI:
Theo sự tích, chúng ta được biết tiền thân của đức
Phật A Di Đà đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp cúng dàng Chư Phật và
tu hành rồi. Các kiếp trước đều có những lời phát nguyện, nhưng không
nhiều như lần gặp đức Phật Tự Tại Vương trong Kinh Phật
Vô Lượng Thọ nêu trên trong một kiếp về sau với 48 lời phát nguyện
thật là rộng lớn vĩ đại.
Sau khi phát 48 đại thệ nguyên như trên, Bồ Tát Pháp
Tạng chuyên chú tu hành, trang nghiêm vun bồi vô lượng đức hạnh
trong vô số kiếp, chẳng màng lục trần, chẳng dính tham sân, chuyên cần
pháp lành để lợi ích chúng sanh. Bồ Tát hoàn thành sáu Ba La
Mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ.
Cũng vì độ chúng sanh mà Bồ Tát đã hiện thân trong
mọi loài để tùy thời cơ mà dìu dắt họ trên đường đạo; tất cả những
sự nhẫn chịu trong sự khó nhẫn, làm những việc khó làm ấy đều vì những
đại nguyện cứu khổ ban vui cho chúng sanh mà thôi.
Những đại thệ nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng thể
hiện đại từ đại bi vô bờ bến và gánh vác trách nhiệm rộng lớn cho
tất cả nhân dân trong cõi Cực Lạc, do đó chúng ta nên tin sâu để tăng
trưởng Bồ đề tâm, tin tưởng công đức tu hành tràn đầy của
đức Phật A Di Đà đã trang nghiêm cõi Cực Lạc cao quý. Có thấy những
điều lợi ích như thế, chúng ta mới ham mộ phấn chí để tu hành được.
Ở đây, Phật A Di Đà đã tịnh hóa được tâm thức, dùng
tâm thức thanh tịnh ấy biến hiện tạo thành Tịnh Ðộ. Nếu chúng sanh
nhất tâm niệm Phật tức là gieo chánh niệm vào tịnh thức của Phật, như đổ
một chậu nước vào biển cả. Nước chậu dung hòa với nước
biển, cùng chung một hương vị; cũng như thế, khi chúng sanh đã sinh
vào quốc độ của Chư Phật, sẽ được dung thông trở thành trang nghiêm như
Chư Phật vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét