CHƯƠNG THỨ BẢY
NÓI RÕ QUẢ BÁO
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng trước đã thuật rõ
tội báo của ác nghiệp. Vì hoạn lụy của ác báo cho nên trái với nghiệp
thù thắng tốt đẹp. Vì ác nghiệp nên phải đọa trong ba
đường dữ trải khắp ác thú và sanh ra ở nhơn gian để chịu trả quả báo
đau khổ. Quả báo đau khổ như thế đều do nhơn duyên tức đối đời trước
đem lại. Bây giờ xả thân nầy chịu thân khác để chịu trả
quả báo mãi mãi không thôi.
Bởi thế chư Phật và chư Đại Bồ tát dùng sức thần thông thiên nhãn,
thấy hết thảy chúng sanh trong ba cõi khi hết phước rồi, cứ theo nghiệp
báo mà đọa vào các chỗ khổ. Thấy chúng sanh từ cõi trời
vô sắc giới do tâm đắm trước thiền định. Thoạt vậy mạng chung, hết
phước đọa xuống cõi trời dục giới.Vì hết phước nên cũng có khi đọa làm
cầm thú. Những chúng sanh ở cõi trời sắc giới, khi hết
phước cũng phải sa đọa như vậy. Từ chỗ thanh tịnh đọa xuống dục giới
là chỗ không thanh tịnh vì ở chỗ không thanh tịnh nên trở lại thọ lấy
dục lạc. Chúng sanh ở sáu cõi trời dục giới khi hết
phước đọa xuống địa ngục chịu vô lượng khổ.
Chư Phật và Bồ tát lại thấy chúng sanh ở trong nhơn đạo, nhờ sức tu
thập thiện được sanh làm người. Ngay trong thân người cũng có lắm khổ
khi mạng chung phần nhiều lại đọa vào các đường ác.
Lại thấy chúng sanh trong đường súc sanh chịu lắm khổ não, bị đánh đập xua đuổi, chở nặng, đi xa, đau đớn khốn khổ, trày vai trợt cổ, sắt nóng thiêu thân.
Lại thấy chúng sanh trong đường ngã quỉ thường bị đói khát khổ sở, bị lửa thiêu thân nhưở thời mạt kiếp. Nếu không nhờ một mảy căn lành để cứu vớt thì vĩnh kiếp không
thể giải thoát. Nếu có
được chút phước thì được
sanh lên làm người nhưng thân hình ốm yếu, nhiều tật bệnh và sống yểu chết non.
Vậy Đại chúng nên biết thiện ác như hai bánh xe theo nhau chưa từng
tạm nghỉ thì quả báo cũng do đó mà liên tiếp không thôi, xoay vần như
sợi dây xích chuyền nối mãi mãi.
Sang hèn giàu nghèo đều tùy hạnh nghiệp của mỗi người mà chịu trả quả báo.
Không phải sang hèn như vậy mà không có nguyên nhơn, không lẽ vô cớ mà có quả báo sang hèn
như vậy, thì rất phi lý.
Trong kinh Phật dạy rằng:
- Làm người, giàu sang, quốc vương, trưởng giả là do cái
nhơn đời trước
lễ bái phụng sự Tam
bảo mà ra.
- Làm người giàu có to lớn là do cái nhơn đời trước bố thí mà ra.
- Làm người sống lâu là do cái nhơn đời trước không sát
sanh mà ra.
- Làm người đoan chánh là do cái nhơn đời trước nhẫn nhục mà ra.
- Làm người siêng tu là do cái nhơn đời trước không biếng nhác mà ra.
- Làm người có tài ba sáng suốt, hiểu rộng thấy xa là do cái
nhơn đời trước
tu trí huệ mà ra.
- Làm người có âm thanh trong trẻo là do cái nhơn đời trước ca
vịnh tán thán Tam bảo mà ra.
- Làm người sạch sẽ không
tật bệnh là do cái nhơn đời trước từ tâm mà ra.
- Làm người thân hình cao lớn tốt đẹp là do cái nhơn
đời trước kính nhường người mà ra.
- Làm người thân hình thấp hèn nhỏ bé là do cái nhơn đời
trước khinh khi người mà ra.
- Làm người thân hình xấu xa là do cái nhơn đời trước hay
giận hờn mà ra.
- Làm người vô tri, không hiểu biết gì hết là do cái nhơn
đời trước không học
hỏi mà ra.
- Làm người ngu xuẩn đần
độn là do cái nhơn đời trước không dạy bảo người mà ra.
- Làm người câm ngọng là do cái nhơn đời trước hay
hủy báng người mà ra.
- Làm người hay bị kẻ khác
sai khiến là do cái nhơn đời trước mắc nợ người không trả mà ta.
- Làm người da đen xấu xí là do cái nhơn đời trước che ánh sáng
quang minh của Phật mà ra.
- Làm người sinh vào nước lõa hình là do cái nhơn đời trước ăn
mặc quần áo mỏng manh
suồng sã, cho mình là hơn người mà ra.
- Làm người sanh vào nước móng ngựa là do cái nhơn đời
trước đi giầy dép tưởng
mình là hơn người, dành đi trước mà ra.
- Làm người sanh vào nước xuyên ngực là do cái nhơn đời
trước bố thí làm phước,
rồi sanh tâm hối hận
tiếc của mà ra.
- Làm người sanh trong loài hưu nai là do cái nhơn đời trước dọa nạt người, làm người khiếp sợ mà ra.
- Làm người sanh trong loài rồng là do cái nhơn đời trước ưa dỡn cợt múa
nhảy mà ra.
- Làm người thân hình sinh lở ghẻ dữ là do cái nhơn
đời trước ưa
đánh đập chúng sanh mà ra.
- Làm người được người
thấy mình liền sanh tâm hoan hỷ là do cái nhơn đời
trước mình thấy người cũng
sanh tâm hoan hỷ.
- Làm người hay bị quan bắt
giam cầm là do cái nhơn đời trước hay bắt giam cầm chúng sanh trong lồng trong chậu mà
ra.
- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm loạn
động tâm người khác, sau sẽ
đọa trong loài chó trập tai.
- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà không để ý nghe cho hiểu sau
sẽ đọa trong loài lừa dài
tai.
- Làm người tham ăn một mình, keo rít, bỏn xẻn, sau sẽ đọa loài quỉ đói. Hết kiếp quỉ đói sanh ra làm người
bần cùng đói khát.
- Làm người đem đồ ăn dở
cho kẻ khác, sau sanh làm heo lợn loài bọ hung.
- Làm người hay cướp giựt
của kẻ khác, sau đọa làm
dê, bị kẻ khác lột da ăn
thịt.
- Làm người ưa trộm cướp của kẻ khác, sau đọa làm trâu ngựa,
bị người sai khiến.
- Làm người ưa nói vọng ngữ, tuyên truyến điều xấu của kẻ khác, sau
đọa địa ngục, bị quỉ sứ rót nước đồng sôi vào miệng, kéo dài lưỡi ra cho
trâu cày. Tội hết rồi, người ấy sanh làm chim cù dục,
chim cú, người nghe tiếng nó kêu, ai cũng sợ hãi, cho là yêu quái,
đều nguyền rủa cho nó chết.
- Làm người ưa uống rượu say, sau đọa vào địa ngục phất sí
(nước phẩn sôi trào). Tội hết rồi người ấy sanh vào loài tinh tinh. Hết
nghiệp tinh tinh, được sanh làm người, ngoan độn, ngu si, không ai đếm
sỉa đến.
- Làm người tham lường sức
mạnh của kẻ khác, sau
sẽ đọa làm voi.
Than ôi! Ở địa vị giàu sang, làm người trên trước mà đánh đập kẻ
dưới. Kẻ dưới không biết thưa kiện với ai. Những người như thế, chết vào
địa ngục, kể cả ngàn vạn năm, chịu quả báo đau khổ.
Từ địa ngục ra, lại đọa làm trâu, bị xâu xỏ mũi miệng dắt thuyền kéo
xe, roi gậy to lớn đánh đập khổ sở, để đền lại nợ oan trái ngày xưa.
Lại nữa, người ăn ở dơ bẩn là từ trong loài heo mà đầu thai ra.
Người xan tham keo kiết, không tự xét mình là từ trong loài chó mà đầu thai ra.
Những người gầm gừ, tự dụng một mình là từ trong loài dê mà ra.
- Người có tánh táo bạo, nóng nảy, không hay nhẫn nhục là từ trong loài khỉ, vượn, hầu mà đầu thai ra.
- Người có thân hình tanh hôi là từ trong loài cá trạnh mà đầu thai ra.
- Người có tâm thâm hiểm, độc ác là từ trong loài rắn độc mà đầu thai ra.
- Người không có từ tâm tàn nhẫn, bạo hại, là từ trong loài hổ báo, sài lang mà đầu thai ra.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, đã sanh ra làm người
trong thế gian bị nhiều bệnh, chết sớm, biết bao thống khổ không thể kể
xiết, như thế là do ba nghiệp gây ra, nên khiến người
“tu hành” phải mắc lấy quả báo trong ba đường dữ.
Sở dĩ có ba đường dữ là vì có tham sân si. Vả lại cũng vì có ba độc
tham sân si ấy mà người tự thiêu đốt lấy mình, miệng thường nói ác, tâm
thường nghĩ ác, thân thường làm ác.
Do các điều ác ấy làm cho thân người thường chịu các khổ não, không
cùng tận. Đến khi mạng chung, hồn côi bơ vơ. Mình làm mình chịu, cha mẹ
vợ con không thể cứu được.
Thoạt vậy trong nháy mắt, đến chốn Diêm vương, ngưu đầu, ngục tốt ở
trong địa ngục không kể tôn ti, chỉ xét sổ tội phước, kiểm điểm nặng
nhẹ, thiện ác nhiều ít, trong lúc sanh tiền đã làm thế nào
thì thần thức tự thú tội, không dám che giấu. Do vì nhơn duyên ấy
nên phải theo nghiệp mà chịu trả quả báo, đến chỗ khổ hay vui là do mình
làm mình chịu mờ mờ mịt mịt ly biệt lâu dài, đường ai
nấy đi, không bao giờ gặp nhau trở lại.
Vả lại, các vị thiên thần ghi chép thiện ác của người không thiếu
sot mảy may. Người thiện làm lành được phước thêm tuổi, người ác làm dữ,
giảm thọ thêm khổ. Cứ xoay vần như vậy, mãi mãi rồi lại
đọa làm quỉ đói. Hết kiếp quỉ đói, thoát ra làm súc sanh. Tội khổ vô
lượng không thể chịu nổi, không bao giờ cùng.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên phải tự tỉnh ngộ mà sanh tâm hổ thẹn.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ”. Nhưng
trong đời ngũ trược ác thế, chúng ta không nên làm ác; làm lành không
mất quả lành, làm ác tự rước lấy tai họa.
Chớ cho khinh thoát lập ra pháp sám nầy.
Kinh dạy rằng: “Chớ khinh điều thiện nhỏ cho là không phước, giọt nước tuy nhỏ, chảy lâu cũng đầy bát to”.
Không chứa thiện nhỏ lấy gì có phước to để thành Thánh thành Phật,
chớ khinh ác nhỏ mà nói là không có tội. Ác nhỏ chứa lại lâu ngày cũng
đủ mất thân.
Đại chúng nên biết: Lành dữ họa phước đều do tâm tạo. Nếu không tạo
nhơn thì không có kết quả. “Ương họa chứa lại, tội thành to lớn”. Chúng
ta mắt thịt không thể thấy. Đó là lời Phật dạy ai dám
không tin.
Chúng con đã cùng nhau vô phước, sanh vào đời mạt pháp, nếu không
siêng năng học tập tu hành, không tự sức mình làm lành đến phút cuối
cùng, tắt thở, khi ấy ăn năn đã muộn. Tuy vậy bây giờ đã
cùng nhau thấy biết hết thảy tội lỗi như trong kinh đức Phật đã dạy:
Người đã biết tội mình há lại không biết bỏ ác theo lành hay sao?
Đời nay nếu không dụng tâm xả thân cầu đạo quyết phải đọa địa ngục. Vì sao mà biết?
Vì trong lúc làm tội ôm lòng độc ác, mạnh mẽ nóng nảy, giận hờn, gắt
gao, sâu sắc. Như giận một người nào quyết muốn cho người ấy chết. Nếu
ghét một người nào, không ưa thấy điều tốt của người
ấy. Nếu hủy báng một người nào, quyết khiến cho người ấy lâm cảnh
vào cảnh khổ. Nếu đánh một người nào, quyết khiến cho người ấy đau đớn
thấu trời thấu đất.
Khi giận hờn tàn bạo tai hại thì không kể tôn ti thượng hạ, dùng lời
xấu hổ, mắng nhiếc đủ điều; có khi la vang như sấm dậy, mắt như lửa đổ.
Còn khi làm phước thì thiện tâm rất yếu ớt. Lúc đầu
muốn làm nhiều, sau lần lần giảm ít lại.
Lúc đầu muốn kinh doanh cho mau chóng, sau lại thả lỏng buông trôi.
Tâm đã không chí quyết ngày tháng trôi qua, lần lượt tới lui cho đến khi quên
mất việc thiện là xong. Xét
như thế thì biết lúc làm tội tâm lực rất mãnh liệt cường thạnh; lúc làm phước thì chí ý bạc
nhược yếu hèn.
Nay đem cái nhơn làm phước yếu hèn ấy mà cầu xa lìa quả báo làm ác mãnh liệt cương
cường kia thì không thể được.
Kinh dạy rằng: “Sám hối thì
tội gì cũng tiêu diệt hết”.
Nhưng than ôi! Đến lúc sám hối, quyết phải đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát
đất như núi Thái sơn sụp đổ, không
tiếc thân mạng mới mong
diệt được tội.
Vì diệt được tội nên
phải ân cần, thành khẩn
cùng nhau xét mình từ khi sanh ra cho đến ngày nay đã gây ra bao nhiêu
tội lỗi. Phải tự xét trách như thế
mới không tiếc thân mạng,
chịu khó nhọc mà sám hối.
Nếu tạm thời
nhiễu Phật liền sanh tâm
mỏi mệt, chán nản,
tạm thời lễ bái
liền nói sức lực không
kham; hoặc tạm thời
ngồi ngay tỉnh niệm,
liền nói nên phải có tin tức chứng ngộ gì. Hoặc nói không nên làm cho thân thể quá mỏi mệt, phải cần dưỡng, không được làm khổ thân.
Vừa nằm xuống
ngủ liền mê man như
chết, không bao giờ tưởng nhớ đến việc ta phải lễ Phật quét tháp, quét chùa làm những việc
khó làm.
Vả chăng, kinh có dạy rõ ràng:
“Chưa từng có một mảy may thiện nào từ sự giải đãi lười biếng mà sanh ra; chưa
từng có một chút phước nào từ sự kiêu mạn, tự do tự đắc mà được”.
Đệ tử chúng con tên . . . tuy được làm thân người, nhưng tâm hay
trái đạo, vì sao mà biết? Vì từ sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, từ
chiều đến tối, từ tối đến sáng. Cho đến không có một
thời giờ một khắc, một niệm, một khoảnh nào mà chúng con để tâm nhớ
tưởng Tam bảo, nghĩ nhớ lý tứ đế, cũng không có một chút tâm nào nghĩ
nhớ báo ơn cha mẹ, không có một chút tâm nào nghĩ nhớ báo
ơn Sư trưởng; Không có một chút tâm nào muốn bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, không có một chút tâm nào muốn học thiền định, muốn tu
trí huệ.
Nay thử đem kiểm điểm
lại các pháp thanh bạch thì chúng con không có một pháp nào đáng kể.
Trái lại những phiền não
trọng chướng thì không biết
bao nhiêu mà kể, đầy tai đầy mắt.
Nếu không kiểm soát như
thế thì chúng con cũng tự hào rằng: công đức của chúng ta
rất nhiều. Nếu có làm
được chút việc thiện gì thì
nói ta hay làm người khác không hay làm; ta hay tu người khác không hay tu; ý chí
cao ngạo, xem như “mục hạ vô nhơn”, quanh mình không còn ai nữa.
Xét lại mà nghĩ, thật là đáng xấu hổ.
Nay đối trước Đại chúng,
chúng con xin sám hối các tội lỗi ấy, mong Đại chúng hoan
hỷ bố thí cho, tương
lai không còn chướng ngại nữa.
Đại chúng cũng nên tự rửa
sạch thân tâm. Theo sự trình bày quả báo như trước đã
thuật đủ thì không thể
tự khoan dung mà không cầu xả bỏ tội lỗi.
Đại chúng chớ nói ta không có các tội ấy, ta đã vô tội, cần gì sám hối. Nếu Đại chúng có nghĩ như thế,
nguyện xin từ bỏ ngay tâm
niệm ấy đi. Phải chăng bao
nhiêu lầm lỗi vi tế đã
kết thành tội lớn
đại.
Thoạt vậy giận,
hờn, sân tâm liền khởi
tập thành tánh quen, khó có thể sửa đổi mau chóng, không thể buông tâm
phóng ý mà không ngăn ngừa.
Nếu hay đè nén nhẫn nhịn
thì phiền não có thể trừ.
Người nào giải đãi lười
biếng, buông lung thì không thể tế độ được.
Đệ tử chúng con tên . . . ngày nay mong nhờ sức từ bi hộ niệm của chư Phật, chư
đại Bồ tát sức
bổn thệ nguyện
lực mà nói kinh: ‘TỘI NGHIỆP, BÁO ỨNG, ĐỊA NGỤC’ nên chúng con hết lòng lắng nghe.
“Ta nghe Đức A Nan thuật lại như thế nầy: Một hôm Phật ở tại thành Vương xá, trong núi
Kỳ xà quật, cùng với chư Đại Bồ tát ma ha tát,
các vị Thanh văn và quyến thuộc của các Ngài đông đủ; cũng có các
vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư
thiên, quỉ thần, thảy đều đến dự hội đông đủ”.
Lúc bấy giờ có Ngài Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn hôm nay
có đủ chúng sanh ở các đường địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, sang, hèn, giàu, nghèo không biết bao nhiêu chủng loại . . . Phảm có chúng sanh nào
nghe được Phật thuyết pháp
thì cũng như con thơ gặp mẹ, như bệnh gặp thuốc, như lạnh có áo, như
tối có đèn. Thế Tôn thuyết pháp lợi ích cho chúng sanh cũng như
thế ấy”.
Lúc bấy giờ Phật
thấy thời cơ đã
đến; biết các vị
Bồ tát khuyến mời
Phật thuyết pháp rất ân
cần; Phật liền phóng
đạo hào quang trắng giữa
hai chặn mày, soi khắp mười
phương vô lượng thế giới, địa ngục không còn, thống khổ cũng
hết.
Lúc bấy giờ hết
thảy chúng sanh đang chịu tội, tìm ánh sáng quang minh của Phật mà
tới; Nhiễu quanh Phật
bảy vòng nhất tâm lạy
Phật khuyến mời
Phật thuyết pháp, rộng giáo
hóa chúng sanh, khiến chúng sanh mong nhờ nghe pháp mà được giải thoát.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng cũng nên chí thành khuyến mời chư Phật thuyết pháp như
vậy; nguyện cho chúng sanh đều được giải thoát.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đảnh lễ Thế tôn, năm vóc sát
đất như núi Thái sơn đổ mả khuyến thỉnh mười phương tận hư không
giới hết thảy
chư Phật thuyết pháp. Nguyện Phật đem sức từ bi, cứu các khổ não cho chúng sanh được an vui.
Lại xin khuyến thỉnh quy y
Thế gian Đại Từ Bi
Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Thiên Phật
Nam mô Bất thối
chuyển Luân thành thủ
Phật
Nam mô Đại hưng
quang vương Phật
Nam mô Pháp chủng Tôn Phật
Nam mô Nhật Nguyệt đăng minh
Phật
Nam mô Tu Di Phật
Nam mô Đại Tu Di Phật
Nam mô Siêu Xuất Tu Di Phật
Nam mô Dụ như Tu
Di Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Vi nhiễu Hương Huân Phật
Nam mô Tịnh quang Phật
Nam mô Pháp Tối Phật
Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật
Nam mô Đại Tập
Phật
Nam mô Hương Quang Minh Phật
Nam mô Đại Quang Minh Phật
Nam mô Vô Lượng Quang Minh Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bố Tát
Nam mô Sư Tử Phấn tấn Bồ Tát
Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ Tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Phật Đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương
tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo cứu hộ hết thảy chúng sanh; diệt trừ hết thảy khổ não, khiến các chúng sanh liền được
giải thoát, bỏ ác theo lành, không làm ác nữa; Từ nay trở đi không còn
đọa địa ngục, ngã
quỉ, súc sanh nữa; thân khẩu ý đều thanh tịnh; không nghĩ
đến việc ác của
người; xa lìa các nghiệp chướng; được các nghiệp thanh
tịnh; hết thảy tà ma không
thể lay chuyển; thường tu
bốn món vô lượng tâm ([1]); tinh
tiến dõng mãnh, trồng các căn lành vô lượng vô biên; xả thân nầy
thọ thân khác đều được
thường sanh nơi phước địa; nhớ ba đường khổ, phát tâm bồ đề tu đạo Bồ tát không thôi không
dứt. Lục độ ([2])
tứ đẳng ([3])
thường được hiện
tiền. Tam minh ([4]) lục thông, thường được như ý
tự tại. Ra vào cảnh
giới của chư
Phật, chơi dỡn tự do cùng các vị Bồ tát thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên sanh tâm sợ hãi,
sanh tâm từ bi nhất tâm nhất ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ.
Lúc bấy giờ đức
Thế Tôn phóng đạo bạch hào
tướng quang ở giữa hai
chặn mày soi sáng khắp hết
thảy chúng sanh trong sáu đường. Khi ấy Ngài Tín Tướng Bồ tát vì
thương sót hết thảy chúng sanh, liền từ tòa
ngồi đứng dậy đến trước Phật quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Nay có
chúng sanh bị các ngục tốt
cắt chặt bằm chém thân
thể từ đầu đến chân. Chúng sanh ấy bị
chặt và chết ngất thì có
gió xảo phong thổi sống
lại. Sống rồi lại bị chặt, chịu khổ báo như
thế vô cùng vô tận không bao giờ ngừng là vì tội gì vậy”.
Phtậ bảo: “Những chúng sanh
ấy ở các đời trước không tin Tam bảo, không biết cúng
dường bất hiếu
với cha mẹ, sanh tâm ác nghịch; làm nghề hàng thịt, cắt chặt chúng sanh, vì các nhơn
duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
– Lại có chúng sanh, thân thể sần sượng tê cứng cả người, mày râu
rụng hết, toàn thân bầm đỏ, bạn với chim muông, vắng vẻ bóng người bà
con xa bỏ, không ai muốn thấy. Ác báo như thế là bệnh phong
hủi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước người ấy không tin Tam bảo, bất hiếu với cha
mẹ, phá tháp hủy chùa, bóc lột người tu hành, chém bắn Thánh Hiền, tổn
thương Sư trưởng, chưa từng biết quấy; vong ơn bội
nghĩa, hành động như cẩu khuyển (chó) làm xấu người trên, không kể thân sơ, không biết hổ thẹn, vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
– Lại có chúng sanh thân hình dài lớn, tai điếc, chân không có, quắn
quại, bò lết mà đi, chỉ ăn đất cát mà sống; bị các sâu trùng nhỏ nhiệm
cắn rức; ngày đêm chịu khổ vô cùng không gián đoạn; vì
nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật dạy: “Vì đời trước làm người chỉ biết có mình, không tin lời
hay, lời lành của kẻ khác. Bất hiếu với cha mẹ, trái ý phản nghịch, hoặc
làm địa chủ hay làm quan to, trấn nhậm bốn phương, hoặc
làm châu trưởng cai tri đốc suất dân chúng mà cậy oai ỷ thế, xâm
đoạt của người cách vô lý, không đạo đức, làm cho dân chúng cùng khổ. Vì
nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.”
– Lại có chúng sanh đui cả hai mắt, không thấy biết gì, hoặc bị cây đè, hoặc sa hầm hố mà chết, chết rồi sống lại; sống lại rồi chết, cứ như thế mãi. Vì nhơn
duyên gì, mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước
không tin tội phước, che ánh sáng của Phật, may bít mắt người, giam nhốt chúng sanh, lấy bao
lấy đẫy bao đầu chúng sanh,
không cho trông thấy. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất dáng sợ hãi.
Chúng con cũng có thể đã làm những tội như thế. Nhưng vì vô minh che lấp tâm tánh nên không tự nhớ biết đó mà thôi.
Những tội như
vậy vô lượng vô biên đến đời sau sẽ chịu khổ báo.
Ngày nay chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát
đất như núi Thái sụp đổ, cầu xin sám hối, hổ thẹn ăn năn, cải đổi tâm tánh. Những tội đã làm rồi nhờ sám hối mà trừ diệt. Những tội chưa làm,
từ nay thanh tịnh. Nguyện xin quy y hết thảy mười phương chư
Phật.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Khai quang minh Phật
Nam mô Nguyệt đăng quang Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang
Phật
Nam mô Nhật nguyệt Quang minh
Phật
Nam mô Đạo hảo Quang minh
Phật
Nam mô Tập âm Phật
Nam mô Tối oai nghi Phật
Nam mô Quang minh tôn Phật
Nam mô Liên hoa quân Phật
Nam mô Liên hoa hưởng Phật
Nam mô Đa Bảo Phật
Nam mô Sư tử hống Phật
Nam mô Sư tử âm vương Phật
Nam mô Tinh tấn quân Phật
Nam mô Kim cang dõng dược Phật
Nam mô Độ nhất
thế thuyền tuyệt chúng nghi Phật
Nam mô Bảo đại
thị tùng Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Địa Lực Trì dõng
Phật
Nam mô Tối dõng dược
Phật
Nam mô Sư tử tác Bồ tát
Nam mô Khí ấm cái Bồ tát
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Thường bất ly
thế Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo ,
nguyện xin Tam bảo dũ lòng đại từ đại bi, gia hộ cứu vớt, khiến các
chúng sanh liền được giải thoát. Vì các chúng sanh mà diệt
trừ những nghiệp địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, khiến các chúng sanh
rốt ráo không chịu các quả báo dữ nữa, khiến các chúng sanh bỏ khổ trong
ba đường ác, đồng đến chỗ trí huệ, đều được yên ổn,
hoàn toàn an vui.
Nguyện xin Tam bảo đem ánh sáng đại quang minh diệt trừ mê mờ rất si ám cho chúng sanh; phân biệt
rộng rãi, giải thích rõ ràng pháp môn vi diệu, thậm thâm nhiệm mầu cho chúng sanh nghe, khiến chúng sanh đều được chứng quả vô thượng Bồ đề, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nên chí thành
nhất tâm mà nghe, suy nghĩ cho kỹ:
Tín Tướng Bồ tát bạch
Phật rằng: Bạch
đức Thế Tôn:
Lại có chúng sanh ngọng lịu
ấm á, miệng không thể nói,
dầu có nói cũng không rõ ràng. Vì nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước
người ấy phỉ báng Tam
bảo khinh hủy Thánh đạo,
bàn luận việc xấu
tốt của người, tìm
việc hay dở của
người, vu oan cho kẻ lương thiện, ghen ghét người hiền. Vì nhơn duyên
ấy, nên mắc phải
tội như vậy.
– Lại có chúng sanh bụng lớn như trống,
cổ nhỏ như kim, không
thể ăn nuốt được.
Nếu có đồ ăn, đồ ăn
biến thành máu mủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải
tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước, người ấy trộm cắp đồ ăn của chúng. Khi có đại hội, sắm các thức ăn ngon, người ấy riêng lấy mà ăn, hoặc lấy mè muối, gạo cơm ra chỗ khuất mà ăn.
Lại thêm keo rít, tiếc của
mình, tham của người, thường ôm lòng độc ác, cho người
uống thuốc độc,
nghẹt thở không thông. Vì nhơn duyên ấy nên mắc
phải tội như
vậy.
– Lại có chúng sanh thường bị ngục tốt thiêu đốt, dội nước sắt nóng vào thân, đóng đinh sắt vào thân; đóng rồi tự nhiên hỏa bốc thiêu cháy thân thể thảy
đều phỏng đỏ. Vì
nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm
thầy châm, lể, tổn
thương thân thể của người. Châm chích không lành, gạt
người lấy của, làm cho
người đau khổ. Vì nhơn duyên ấy nên mắc
phải tội như
vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở trong cái vạc (cái chảo
nấu) nước sôi ngưu đầu ngục tốt, tay cầm xoa sắt, móc bỏ vào vạc nấu chín rục, rồi thổi cho sống lại. Sống lại rồi nấu nữa. Vì nhơn duyên gì nên mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước người ấy làm nghề hàng thịt, giết chúng sanh,
trụng nước sôi, nhổ sạch lông, giết hại rất nhiều không thể kể xiết. Vì
nhơn duyên ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi.
Chúng con không biết ở trong đường ác nào đã từng làm vô lượng tội
nghiệp như thế. Đời sau quyết phải mắc quả báo ác nghiệt ấy. Ngay trong
đời hiện tại chúng con cũng có thể mắc phải quả báo ác
nghiệt ấy. Ấm cúng, ngọng lịu, miệng không thể nói, hoặc bụng lớn cổ
nhỏ, không thể ăn nuốt, mạng sống vô thường. Ngày nay tuy an vui ngày
mai thế nào không thể biết được.
Thình lình gặp phải quả báo đến, không thể thoát được.
Mọi người đều nên hiểu rõ ý ấy, nhất tâm chánh niệm, chớ tư tưởng gì
nữa, chỉ một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện
vì hết thảy chúng sanh ở khắp trong bốn loài sáu đường,
ngày nay đang chịu khổ, đã chịu khổ, hay sẽ chịu khổ mà quy y Thế
gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Tự tại
vương Phật
Nam mô Vô lượng âm Phật
Nam mô Định Quang minh Phật
Nam mô Bảo Quang minh Phật
Nam mô Bảo Cái chiếu không
Phật
Nam mô Diệu Bảo
Phật
Nam mô Đế Tràng Phật
Nam mô Phạm Tràng Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Thù Thắng Phật
Nam mô Tập Âm Phật
Nam mô Kim cang bộ Tinh tấn
Phật
Nam mô Tự tại
vương Thần thông
Phật
Nam mô Bảo Hỏa
Phật
Nam mô Tịnh nguyệt tràng
xưng quang Phật
Nam mô Diệu Lạc
Phật
Nam mô Vô lượng tràng phan Phật
Nam mô Vô lượng phan Phật
Nam mô Đại quang Phổ
chiếu Phật
Nam mô Bảo Tràng Phật
Nam mô Huệ Thượng
Bồ tát
Nam mô Thường bất ly
thế Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo
nguyện xin chư Phật, chư Bồ tát, đem sức đại từ đại bi, cứu hộ hết thảy
chúng sanh đang chịu khổ, dùng sức thần thông diệt trừ ác
nghiệp cho các chúng sanh, hoàn toàn không đọa trở lại trong ba
đường khổ, đến được chỗ an vui thanh tịnh, sanh ra chỗ nào cũng được
thanh tịnh, công đức đầy đủ, không thể cùng tận. Xả thân thọ
thân hằng gặp chư Phật, đồng với các vị Đại Bồ tát thành đẳng chánh
giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại gia tâm lực, lắng tai nghe kỹ.
Tín Tướng Bồ tát lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng
sanh ở trong hỏa thành tâm can bị thiêu đốt, bốn cửa thành tuy mở, nhưng
chạy đến thì cửa liền tự đóng, chạy khắp đông tây cũng
không ra được, bị lửa thiêu sạch. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội
ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm
người thiêu đốt rừng núi,
phá vỡ bờ đê, chiên rán các thứ trứng gà vịt làm cho chúng sanh
bị thiêu, bị đốt mà
chết nên phải mắc
tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở núi Tuyết sơn bị gió lạnh thổi, da thịt
nức nở, cầu chết không được, cầu sống không được, khổ sở vô cùng không
thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Người ấy đời trước làm giặc, đón đường bóc lột áo quần
người khác để tự tư dưỡng; mùa đông giá lạnh, lột truồng hình người khác
làm cho họ phải chết lạnh và lột da xẻ thịt trâu dê, làm
cho chúng sanh đau khổ vô lượng. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội
như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở trên núi dao, rừng kiếm, rờ đụng vào
đâu thì liền bị cắt đứt đó, thân thể tay chân đều bị chặt nát, đau đớn
khổ sở, không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải
tội ấy?
Phật đáp; Vì người ấy đời trước làm nghề sát sanh, phanh thây xẻ
thịt chúng sanh, cắt xẻo bóc lột, cốt nhục chia lìa, đầu mình tan rã,
treo lên trên cao, cân lường mà bán, hoặc treo sống mà bán
đau đớn vô cùng chúng sanh không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì ác
nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh tai mắt v.v... năm căn không đủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước nuôi chim bay chó chạy để đi săn bắn. Bắn
chim bắn thú, hoặc bắn bể đầu, hoặc bẫy đứt chân, nhổ sống lông cánh,
làm chúng sanh đau khổ vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhơn
duyên ấy nên phải mắc tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như
vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát
đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh
trong mười phương, hoặc đã chịu khổ, hoặc đang chịu khổ, hoặc sẽ
chịu khổ mà quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Tịnh Quang Phật
Nam mô Bảo Vương
Phật
Nam mô Thọ căn Hoa vương Phật
Nam mô Duy Vệ trang nghiêm Phật
Nam mô Khai Hóa Bồ tát Phật
Nam mô Kiên vô khủng cụ
Phật
Nam mô Thừa nhất
độ Phật
Nam mô Đức nội phong nghiêm
vương Phật
Nam mô Kim cang Kiên cường tiêu phục
hoại tán Phật
Nam mô Bảo Hỏa
Phật
Nam mô Bảo nguyệt quang minh
Phật
Nam mô Hiền Tối
Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa Bộ
Phật
Nam mô Hoại ma la võng độc
bộ Phật
Nam mô Sư tử Hống lực Phật
Nam mô Bi Tinh tấn Phật
Nam mô Kim bảo quang minh Phật
Nam mô Vô lượng tôn phong Phật
Nam mô Vô lượng Tôn ly cấu
vương Phật
Nam mô Đức Thủ
Phật
Nam mô Dược vương
Bồ tát
Nam mô Dược Thượng
Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương
tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo đem lòng
đại từ, đại bi
cứu hộ hết thảy chúng sanh trong mười phương
khiến các chúng sanh hiện đang chịu khổ liền được giải thoát; chúng sanh sẽ
chịu khổ hoàn toàn, đoạn
trừ phiền não, rốt ráo
không sa đọa trỉ lại trong
ba đường ác nữa.
Từ nay trở đi cho đến ngày
thành Phật trừ sạch ba
nghiệp chướng diệt
hết năm sợ hãi; hoàn toàn đầy đủ công đức trang nghiêm;
nhiếp hóa hết thảy chúng
sanh hướng về vô thượng
đạo, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại lắng lòng mà nghe:
Tín Tướng Bồ tát bạch
Phật. Bạch đức
Thế Tôn: Lại có chúng sanh què trệt, lưng cong, tay chân co quắp, không thể cầm nắm , không thể đi đứng. Vì
nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm
người độc ác, để binh khí
giữa đường, đặt súng
đặt gươm, đào hầm đào hố, hãm hại chúng sanh. Vì ác
nghiệp ấy nên mắc
phải tội như
vậy.
– Lại có chúng sanh bị các ngục tốt trói buộc thân thể, gông cùm khổ ách, không thể thoát
được. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước
người ấy chài lưới chúng
sanh, buộc nhốt lục súc,
hoặc làm chủ tể,
quyền hành địa phương, cai trị dân chúng, tham lam vơ vét, giam oan ngưởi vô tội, lương thiện, oán
hận không biết kêu ai.
– Lại có chúng sanh hoặc điên, hoặc si, hoặc cuồng, hoặc sợ, không phân biệt được tốt xấu. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải
tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm
người uống rượu say
sưa, loạn trí loạn tâm, phạm ba mươi sáu
lỗi nên đọa làm người ngu si, cũng như người
say không phân biệt được tốt xấu, thượng hạ tôn ty. Vì ác nghiệp ấy nên
mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thân lùn, hình nhỏ, âm tạng rất lớn, thả xuống thì thân đau, phải
vắc ra sau lưng mà đi, đi đứng nằm ngồi đều bị trở ngại. Vì nhơn duyên gì mắc
phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước buôn
bán vàng ngọc, khen vật báu của mình, chê vật báu của người, thay đổi thăng đấu, vặn cân bẻ móc, (gian lận
thước tấc). Vì nhơn duyên ấy nên mắc
phải tội như
vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời
Phật dạy như
vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau nhất tâm, một lòng tha
thiết, năm vóc sát đất, đầu
thành đảnh lễ, nguyện vì
hết thảy chúng sanh đã chịu
khổ, hết thảy chúng sanh
sẽ phải chịu khổ trong sáu đường; và nguyện vì cha
mẹ, sư trưởng,
tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh khắp trong
mười phương mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Vô số Tinh tấn
hương phong Phật
Nam mô Vô Ngôn Thắng Phật
Nam mô Vô Ngu Phong Phật
Nam mô Nguyệt anh phong Phật
Nam mô Vô Dị quang phong Phật
Nam mô Nghịch không quang minh Phật
Nam mô Tối thanh tịnh vô
lượng tràng Phật
Nam mô Hiếu đế trú duy
vương Phật
Nam mô Thành tựu nhất
thế chư sát phong
Phật
Nam mô Tịnh Huệ
Đức Phong Phật
Nam mô Tịnh Luân Phan Phật
Nam mô Lưu Ly quang tối phong Phật
Nam mô Bảo Đức
Bộ Phật
Nam mô Tối thanh tịnh
đức bảo trú Phật
Nam mô Độ bảo quang minh
thắng Phật
Nam mô Vô lượng Tàm quý kim tối phong
Phật
Nam mô Văn Thù Sư lợi Bồ tát
Nam mô Phổ Hiền
Vương Bồ
tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười tận hư không giới hết
thảy Tam bảo.
Đệ tử chúng con tên . . . ngày nay mong nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, nguyện vì hết thảy chúng sanh mà đành
lễ quy y cầu xin sám hối.
Những chúng sanh đã chịu khổ rồi, xin nhờ sức đại từ bi của chư Phật,
chư Bồ tát, liền được giải thoát.
Những chúng sanh chưa chịu khổ, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo,
rốt ráo không đọa trở
lại trong các đường ác, xa lìa tám nạn khổ; bẩm thọ tám phước sanh; được các căn lành,
thành tựu bình đẳng, đầy
đủ trí huệ, thành tựu
biện tài, thanh tịnh tự
tại, cùng với chư
Phật thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên biết
dụng tâm, lắng lòng mà nghe, Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng sanh, hình
trạng rất xấu, thân đen
như mực, hai tai lại xanh, hai vai nổi lên, mặt
phẳng, mũi dẹp, mắt
đỏ vàng ngầu, răng nướu sua
sún, hơi miệng tanh hôi, vế ngắn và ủng thủng; bụng lớn, lưng nhỏ, tay chân co quắp;
xương sườn, xương sống nổi lên,
tốn vải; ăn nhiều;
ghẻ dữ tanh hôi, máu mủ
nhơ nhớp; bệnh
thủy thủng, càn tiêu, phung hủi ung thư, bao nhiêu điều
ác độc hung dữ đều
dồn vào thân. Dầu muốn thân
cận người không để ý.
Nếu người khác làm tội, vô
cớ mình cũng liên can mang họa. Hằng không được thấy Phật, nghe pháp, không biết Bồ tát không
biết Thánh Hiền. Ra vào nơi đau khổ, không bao giờ
cùng. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật dạy: Vì đời
trước làm con bất hiếu
với cha mẹ; làm tôi không trung chánh với vua, làm người trên không thương kẻ dưới, làm
người dưới không biết kính
kẻ trên, không thành thật, không thủ tín với bạn bè, không nhơn nghĩa với làng xóm; không chức tước với triều đình; không đạo đức trong
sự xử đoán, không có độ
lượng mà lòng dạ đảo điên,
sát hại quân thần; khinh khi tôn trưởng, bán nước buôn dân, phá thành phá lũy, cướp giựt trộm cắp, ác nghiệp vô lượng.
Lại khen mình chê người, xâm lấn già nua, lấn hiếp cô độc; báng bổ người hiền, khinh mạn sư
trưởng; khi dối kẻ hà tiện.
Tóm lại là phạm hết
thảy tội. Vì nhơn
duyên ấy nên mắc phải ác báo, tội nghiệp như vậy.
Lúc bấy giờ những
người bị tội nghe
Phật dạy như
vậy, khóc lóc động địa, nước mắt trào như mưa, bèn bạch Phật rằng: Nguyện xin Thế Tôn sống mãi ở đời, thuyết pháp giáo hóa cho chúng
con mong được giải thoát.
Phật đáp: Nếu ta ở mãi
ở đời, những người bạc phước; không trồng căn lành. Họ bảo ta còn
sống mà không lo nghĩ đến vô thường, tự do tạo ra vô lượng tội ác, sau ăn năn không kịp.
Thiện nam tử ôi! Ví như
con thơ, mẹ thường ở bên mình thì con không nghĩ đến
sự gặp mẹ là khó. Lúc nào
mẹ đi vắng, con mới
liền sanh tâm nhớ tưởng,
khao khát luyến mẹ. Lúc ấy
mẹ trở lại con
mới vui mừng.
Thiện nam tử ôi! Ta nay cũng như vậy Ta biết chúng sanh
không tìm cầu sự thật,
thường trú chơn tâm, cho nên ta nhập Niết bàn.
Lúc bấy giờ Phật
đối trước những chúng sanh
đang chịu tội đó mà nói bài kệ rằng:
Nước chảy không thường
đầy,
Lửa mạnh không thường
đốt,
Mặt trời mọc rồi lặn,
Mặt trăng tròn rồi khuyết,
Sự tôn trọng giàu sang,
Càng vô thường hơn nữa,
Nghĩ lại phải siêng năng,
Đảnh lễ ngôi Tam bảo.
Lúc bấy giờ Phật nói
lời kệ ấy rồi, các người bị tội kia thảy đều buồn rầu mà bạch Phật rằng: Hết thảy chúng sanh làm những việc lành gì mà
xa lìa được những tội
khổ ấy?
Phật dạy: Nầy,
thiện nam tử! Phải siêng
năng hiếu dưỡng cha mẹ;
phụng sự sư
trưởng, quy y Tam bảo, siêng tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, từ bi, hỷ xả, xem kẻ oán người thân như nhau, không
có thân sơ, không khinh người già nua, cô quả; không khinh kẻ nghèo hèn; ủng
hộ người như giúp
đỡ mình, không có tâm ác đối với người.
Nếu các người hay tu hành được như vậy thời cũng đã là báo được ơn
chư Phật; hằng xa lìa ba đường ác, không còn đau khổ nữa. Phật dạy kinh nầy rồi các vị đại Bồ tát liền được quả vô thượng bồ đề. Các hàng Thanh văn Duyên
giác liền chứng được
lục thông, tam minh và tám pháp giải thoát. Còn các đại chúng khác đều được pháp nhãn
tịnh. ([5])
Nếu có chúng sanh nào, nghe được kinh nầy thì không đọa vào ba đường ác, và
không mắc phải tám nạn,
địa ngục trống
rỗng, thống khổ không còn.
Tín Tướng Bồ tát bạch
Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, kinh
nầy gọi là kinh gì? Bồ tát
ma ha tát phải phụng trì bằng cách nào?”
Phật bảo Tín Tướng
Bồ tát: “Thiện nam tử, kinh
nầy gọi là Báo ứng Giáo hóa
Địa ngục kinh”. Các ngươi nên phụng trì, và lưu truyền cùng khắp, công
đức vô lượng”.
Bấy giờ Đại chúng nghe
Phật dạy lời ấy rồi hết lòng vui mừng, đảnh lễ vâng lời làm theo.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời
Phật dạy như
vậy, rất đáng sợ hãi, sanh tâm từ bi, nương
nhờ thần lực
của Phật, tu đạo
Bồ tát nhớ địa
ngục khổ, phát tâm Bồ
đề, vì hết thảy chúng sanh
hiện đang chịu khổ,
ở đường địa ngục, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường ngã quỉ, hết thảy chúng sanh hiện đang
chịu khổ ở đường súc sanh; rộng ra cho đến
hết thảy chúng sanh cùng khắp mười phương
hiện đang chịu khổ
ở trong sáu đường; nhất tâm
nhất ý, vì những chúng sanh ấy mà sám hối, khiến chúng sanh
được giải thoát.
Nếu đại chúng không siêng làm phương tiện, chuyển
họa thành phước, thì ở
trong mỗi mỗi địa
ngục, đại chúng đều có
tội phần.
Cùng nhau chí tâm nghĩ đến cha mẹ, sư trưởng, bà con thân thích, sẽ chịu khổ báo về sau và cũng nghĩ đến tự thân
đại chúng hiện tại và
vị lai cũng phải chịu
khổ báo như vậy. Cho nên đại chúng phải cùng nhau
nhất tâm tha thiết, năm vóc sát đất, chí thành ân cần vận dụng tư tưởng,
nguyện xin một niệm
cảm thấu mười
phương Phật; một lạy đoạn trừ vô lượng tội khổ. Những chúng sanh đã chịu
khổ trong sáu đường, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát. Nếu trong sáu
đường chúng sanh nào chịu khổ, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực làm cho các chúng sanh ấy vĩnh viễn
đoạn trừ sáu đường đau
khổ. Từ nay trở đi
rốt ráo không đọa trở
lại trong các đường ác; trừ
ba nghiệp chướng, tùy ý vãng sanh diệt trừ năm điều sợ hãi, tự tại giải thoát siêng tu đạo nghiệp, không
thôi không nghỉ. Diệu hạnh
trang nghiêm quá Pháp vân địa ([6]), vào Kim
cang tâm ([7]), thành đẳng chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nhất tâm lưu ý, lắng lòng mà
nghe và suy nghĩ cho kỹ:
Kinh Tạp Tạng chép: Bấy
giờ có một con quỉ
bạch với Ngài Mục Liên
rằng:
“Thân tôi hai vai có mắt, ngực có mũi có miệng mà không có đầu. Vì nhơn
duyên gì mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm học trò nhà
hàng thịt, khi giết trâu bò thì ngươi vui mừng, lấy dây trói
buộc mà lôi kéo. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là
tội báo mới nụ hoa,
kết quả sẽ ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ khác
bạch Ngài Mục Liên rằng:
“Thân hình tôi như một khối thịt, không có tay chân, tai, mắt,
mũi, lưỡi v.v... Thân thường bị trùng rúc chim mổ, cắn rức mà ăn, đau đớn vô cùng, không thể
chịu nổi. Vì nhơn
duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi cho người
uống thuốc độc
đọa thai, phá sản khiến
chúng sanh mạng sống không hoàn toàn. Vì nhơn duyên ấy nên mắc
phải tội như
vậy?”
– Lại có một con quỉ
bạch Ngài Mục Liên rằng:
“Bụng tôi thật lớn,
yết hầu như kim. Cùng
năm mãn kiếp không hề ăn uống. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm chủ hàng
xóm, tự ỷ mình hào quý, say sưa tung hoành, khinh khi kẻ khác, cướp giựt thức ăn uống của người làm cho đói khát,
khốn khổ hết thảy nhơn dân. Vì nhơn
duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là quả báo mới đơm hoa, nó sẽ kết
quả ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ
bạch Ngài Mục Liên rằng:
“Tôi một đời lại đây, có
hai vành sắt ở dưới hai
nách, toàn thân cháy rụi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi chia bánh cho chúng, ngươi trộm lấy hai cái,
kẹp dưới hai nách. Vì nhơn
duyên ấy nên mắc phải
tội như vậy.
Đó là tội mới đơm
hoa, kết quả sẽ
ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ,
bạch Ngài Mục Liên rằng:
“Tôi thường lấy đồ
tự bao bọc đầu
lại, sợ người đến giết, sanh tâm sợ hãi. Vì
tội gì đến nỗi
như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi dâm phạm
ngoại sắc, thường
sợ người thấy,
hoặc sợ chồng con
người bắt được, trói trăn,
đánh chết, thường ôm lòng sợ hãi, cho nên mắc phải tội nầy. Đó là tội mới đơm hoa, nó sẽ
kết quả ở địa ngục”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh
dạy, đâu được không sợ hãi.
Từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay chúng con cũng đã làm vô lượng tội ác như
thế. Những tội
ấy đều do vì không có tâm từ bi, ỷ mạnh hiếp yếu, tổn hại chúng sanh, cho đến tội
trộm cắp của người, mê đọa, sa đọa, nịnh hót bài báng người hiền lành, gây
biết bao tội lỗi.
Những tội báo như
vậy ở trong địa ngục, quyết phải chịu thống khổ trong ba đường dữ.
Ngày nay chí tâm một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, thay thế cho hết thảy chúng sanh khắp mười phương, đã chịu khổ báo
trong sáu đường, đang chịu khổ trong sáu đường mà cầu xin sám
hối.
Cũng nguyện xin thay thế vì cha mẹ, sư trường và
hết thảy bà con quyến
thuộc mà cầu xin sám hối và
cũng tự vị bản thân mà
cầu xin sám hối. Những
tội đã làm, nguyện xin trừ
diệt hết. Những
tội chưa làm, không dám làm nữa.
Nguyện xin quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Liên Hoa Tôn Phong Phật
Nam mô Tịnh Bảo
Hưng Phong Phật
Nam mô Điện đăng Phan vương Phật
Nam mô Pháp không đăng Phật
Nam mô Nhất thế chúng
đức thành Phật
Nam mô Hiền phan Tràng vương Phật
Nam mô Nhất Thế
Bảo Trí Sắc trì Phật
Nam mô Đoạn nghi Bạt
dục trừ minh Phật
Nam mô Ý vô khủng cụ oai mao
bất thọ Phật
Nam mô Sư tử Phật
Nam mô Danh xưng Viễn vặn Phật
Nam mô Pháp danh Hiệu Phật
Nam mô Phụng Pháp Phật
Nam mô Pháp Tràng Phật
Nam mô Tu Di Đăng quang minh Phật
Nam mô Bảo Tạng trang nghiêm
Phật
Nam mô Chiên Đàn ma ni quang Phật
Nam mô Kim Hải Tự
Tại vương
Phật
Nam mô Đại bi quang minh vương Phật
Nam mô Ưu bát la liên hoa thắng Phật
Nam mô Liên Hoa Tu trang nghiêm vương Phật
Nam mô Kim cang kiên cường Tự
tại vương
Phật
Nam mô Thù thắng Nguyệt
vương Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang
vương Phật
Nam mô Đại Thế Chí
Bồ tát
Nam mô Thường Tinh Tấn
Bồ tát
Nam mô Bất Hưu
Tức Bồ tát
Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương
tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo dủ lòng đại từ đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh, hiện đang
chịu khổ, và sẽ
chịu khổ trong sáu đường,
khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát, đem sức thần thông diệt trừ ba đường ác và nghiệp địa ngục, khiến các chúng sanh
ấy từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật hoàn toàn không đọa trở lại trong đường ác, xả thân khổ báo, được thân kim cang, tứ vô lượng tâm,
lục ba la mật thường
được hiện tiền;
tứ vô ngại biện, sáu
sức thần thông như ý
tự tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, cho đến khi
mãn hạnh thập địa,
trở lại độ thoát
hết thảy chúng sanh.
CHƯƠNG THỨ BẢY
NÓI RÕ QUẢ BÁO
(tiếp theo)
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại phải chí thành đảnh lễ, nhất tâm lắng nghe.
Lúc bấy giờ Phật ở thành Vương Xá, trong vườn trúc Ca lan đà, Ngài Mục Kiền Liên từ thiền định đứng dậy đi dạo trên bờ
sông Hằng thấy các ngã quỉ chịu tội không đồng nhau.
Khi
ấy các ngã quỉ đồng sanh lòng cung kính đến hỏi Ngài Mục Liên về nhơn
duyên đời trước. Một ngã quỉ hỏi rằng: “Tôi một
đời lại đây, thường bị đói khát, muốn vào nhà xí, lấy phẩn mà ăn;
trên nhà xí đã có con đại quỉ lấy gậy đánh tôi; tôi không đến gần nhà xí
được. Vì cớ gì mà tôi mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng: Đời trước lúc làm người, ngươi làm chủ chùa, có khách Tỳ kheo đến xin ăn. Ngươi keo kiết không đãi
khách ăn. Chờ khách đi rồi ngươi mới cho các thầy thường ở trong chùa ăn.
Vì ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng; do nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
Đó là hoa báo, quả báo sẽ ở địa ngục.
– Lại có một ngã quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, trên vai có cái bình đồng lớn, đựng đầy nước sôi. Tôi
tự lấy gáo múc xối từ trên đầu xuống, đau khổ vô cùng, không thể chịu được. Tôi vì tội gì mà phải như thế?”
Ngài Mục Liên đáp rằng:
Lúc làm người, ngươi làm duy na trong chùa, xem việc trong Đại chúng. Có một bình sữa, ngươi dấu chỗ kín; đúng giờ không
đem chia cho chúng đợi khách đi rồi, mới đem chia cho các người trong chùa. Sữa là vật chiêu đề ([1]), thuộc của chúng tăng trong mười phương, mọi người đều có phần vì
ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng. Do nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như vậy. Đó là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa ngục.
– Lại có quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời trở lại đây, thường nuốt những hàn sắt nóng. Vì những tội gì mà phải như
vậy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng:
Lúc
làm người ngươi làm một vị Sa di nhỏ, lấy nước trong sạch quấy đường
phèn cho chúng. Đường phèn cứng rắn, ngươi sanh
tâm trộm cắp, đập nhỏ lấy chút ít. Đại chúng chưa uống, ngươi đã
uống trộm trước một hớp. Do vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
Đó là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa ngục.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe những việc Ngài Mục Liên đã nghe đã thấy, rất đáng sợ hãi.
Chúng
con có thể làm những tội ấy. Vì vô minh ngăn che chúng con không tự nhớ
biết. Giả sử như chúng con đã tạo vô lượng
tội nghiệp như vậy, đời sau quyết phải thọ lãnh quả báo đau khổ ấy.
Vậy nên bây giờ phải chí tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ hổ thẹn cầu
xin sám hối. Nguyện trừ diệt sạch những tội lỗi ấy và
nguyện xin sám hối thế cho hết thảy ngã quỉ khắp mười phương tận hư
không giới.
Lại nguyện xin sám hối thế cho các cha mẹ và các sư trưởng nguyện xin sám hối thế cho các bậc đồng đàn tôn chứng: thượng
trung hạ tòa.
Nguyện xin sám hối thế cho tất cả thiện ác tri thức rộng ra cho đến khắp cả mười phương tận không giới, vô cùng vô tận hết
thảy chúng sanh trong tứ sanh lục đạo.
Những tội đã làm, nhơn nay sám hối mà được trừ diệt. Những tội chưa làm thề không dám làm.
Nguyện xin mười phương chư Phật chứng biết cho chúng con.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Sư Tử Phật
Nam mô Minh Viêm Phật
Nam mô Mâu Ni Phật
Nam mô Diệu Hoa Phật
Nam mô Hoa Thị Phật
Nam mô Thiện Túc Phật
Nam mô Đạo sư Phật
Nam mô Đại Tý Phật
Nam mô Đại Lực Phật
Nam mô Túc Vương Phật
Nam mô Tu Dược Phật
Nam mô Danh tướng Phật
Nam mô Đại minh Phật
Nam mô Viêm Kiên Phật
Nam mô Chiếu Diệu Phật
Nam mô Nhật Tạng Phật
Nam mô Nguyệt thị Phật
Nam mô Chúng Viêm Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Sư tử Du Hý Phật
Nam mô Sư tử Phấn tấn Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già
Lại quy y như mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo dủ lòng đại từ bi cứu vớt hết thảy chúng sanh khắp mười
phương hiện đương chịu khổ trong đường ngã quỉ.
Lại nguyện xin cứu vớt hết thảt chúng sanh khắp mười phương hiện đương chịu khổ vô lượng trong đường địa ngục; trong
đường súc sanh và trong nhân loại; làm cho các chúng sanh ấy liền được giải thoát đoạn ba nghiệp chướng ([2]) trừ năm sợ hãi ([3]) chứng tám giải thoát ([4]) dùng bốn hoằng thệ ([5]) độ thoát chúng sanh đảnh lễ Thế Tôn, thưa thỉnh giáo lý vi diệu; không
rời đương xứ sạch hết hữu lậu, tùy tâm tự tại, dạo khắp cõi Phật, hạnh nguyện viên mãn, chóng thành chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, lại chí thành lắng lòng mà nghe.
Lúc
bấy giờ Phật ở thành Vương xá, phía đông nam có một hồ nước bao nhiêu
tiểu dãi ô uế đều thẩy vào hồ ấy, hôi thúi không
thể đến gần được. Có một con trùng lớn sanh ở trong hồ ấy. Thân dài
mấy trượng; không có tay chân, quằn quãi lăn lóc, hằng ngàn người đến
xem. Ngài A Nan thấy vậy về bạch Phật. Phật và Đại chúng
cùng nhau đến hồ ấy xem. Đại chúng nghĩ rằng:
“Nay đây đức Như Lai sẽ nói rõ đầu đuôi việc con trùng ấy cho mọi người nghe”.
Phật bảo Đại chúng: “Sau khi đức Phật Duy Vệ nhập Niết bàn rồi, có năm trăm thầy Tỳ kheo đi qua một ngôi chùa. Lúc ghé vào
chùa, chủ chùa rất hoan hỷ vui mừng, mời Đại chúng ở lại để cúng đường. Ông hết lòng thết đãi không tiếc món gì”.
Sau đó có năm trăm người đi buôn vào biển lấy ngọc, lúc về cũng ghé lại chùa. Các người ấy thấy 500 Tỳ kheo tu hành tinh
tấn liền hân hoan, phát tâm cúng dường, mới cùng nhau nghĩ rằng: “Phước điền khó gặp chúng ta nên cúng dường lễ mọn”.
Mỗi người cúng một viên ngọc; cộng được năm trăm ma ni châu, đem gửi chủ chùa. Sau đó chủ chùa sanh tâm không tốt, lập mưu
muốn đoạt lấy một mình, không đem ra cúng dường chúng tăng.
Đại chúng mới hỏi: Ngọc châu của khách buôn bố thí nên đem ra cúng dường Đại chúng?
Chủ chùa đáp rằng: “Ngọc châu ấy cúng cho ta, nếu các người muốn đoạt, thì có phẩn uế cho các ngươi. Nếu các ngươi không
đi ngay bây giờ, ta sẽ chặt tay chân các người quăng vào hầm phẩn”.
Đại chúng nghĩ thương người ấy quá ngu si, bèn làm thinh bỏ đi.
Vì tội ác ấy nên nay chủ chùa kia phải làm thân trùng nầy; sau sẽ vào địa ngục chịu vô lượng đau khổ.
– Lại nữa, khi ấy Phật ở thành Vương xá, thấy một chúng sanh có cái lưỡi rất dài lớn. Có đinh sắt đóng vào lưỡi lửa phát
cháy hừng hực, chịu đau khổ suốt ngày đêm.
Ngài Mục Liên bèn hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà chịu khổ như vậy?
Phật đáp:
Người ấy xưa kia từng làm chủ chùa, hay mắng nhiếc, xua đuổi các thầy Tỳ kheo; ở lâu trong chùa hay khách tăng mới đến
cũng vậy và không cho ăn uống, không bình đẳng cúng dường. Vì nhơn duyên ấy nên nay mắc phải tội như vậy.
– Lại có một chúng sanh thân thể dài lón, trên đầu có cái vạc nước đồng sôi, bốc lửa cháy hừng hực, nước đồng sôi chảy
tràn ra tứ phía, chảy khắp thân thể, chúng sanh ấy nương hư không mà đi mãi không nghỉ.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như thế
Phật đáp
Người ấy đời xưa làm Tri sự ở chùa, Đàn việt cúng dầu thắp, Tri sự không chia cho khách tăng. Đợi các thày khách tăng đi
rồi sau đó mới chia cho các thày thường ở trong chùa.
Vì nhơn duyên ấy nên nay người ấy mắc phải tội như vậy.
– Lại có một chúng sanh bị các hoàn sắt cháy đỏ hừng hực, từ trên đầu mà vào, từ dưới chân mà ra; nương hư không mà đi
người ấy đau khổ vô cùng, không thề chịu được.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như vậy?
Phật đáp rằng:
Người ấy đời trước làm ông Sa di có trộm bảy trái me ([6]) trong vườn chúng tăng. Sau khi chết rồi, Sa di ấy đã chịu vô
lượng khổ trong địa ngục. Nay nghiệp báo chưa hết, hãy còn dư ươn, nên phải chịu khổ như vậy.
– Lại có một con cá lớn, một thân trăm đầu, mỗi đầu một khác, bị sa vào lưới người.
Thế Tôn thấy vậy bèn nhập định “Từ tâm Tam muội” gọi con cá ấy. Cá ấy tức thời ứng khẩu trả lời.
Thế Tôn hỏi cá:
– Mẹ ngươi ở đâu?
– Mẹ tôi làm con trùng rúc trong nhà xí!
Phật bảo các tỳ kheo: Lúc Phật Ca Diếp ra đời, con cá lớn nầy làm vị Tam tạng Tỳ kheo; vì ác khẩu nên chịu quả báo nhiều
đầu. Mẹ nó bấy giờ thọ hưởng lợi dưỡng của nó, nên đọa làm con trùng rúc trong cầu tiêu.
Phật
dạy tiếp rằng: – Mắc phải báo ấy đều do chúng sanh ác khẩu, nói lời thô
tháo cứng xẳng, tuyên truyền bỉ thử,
làm cho hai bên tranh đấu loạn lạc lẫn nhau. Chết rồi vào địa ngục,
bị ngục tốt đốt đỏ cái bề sắt (?) trong ngoài nóng đỏ như nước đồng sôi
để nung cái lưỡi người có tội. Quỉ lại đốt đỏ móc sắt,
móc có ba lưỡi sắt bén như mũi nhọn để đoạn cái lưỡi của tội nhơn.
Lại kéo dài cái lưỡi ra như trâu kéo cày.
Lại đốt đỏ cái chày sắt dộng vào yết hầu, trải qua ngàn vạn kiếp. Tội hết mới ra khỏi địa ngục, làm loài chim
muông.
Phật dạy: “Nếu có chúng sanh nào đàm luận việc vua chúa, chánh trị, cha mẹ và sư trưởng, thì tội lại còn nặng hơn.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật dạy lời ấy, rất đáng sợ hãi. Bấy giờ Đại chúng đã thấy rõ ràng:
thiện ác hai đường không sai, tội phước và quả báo chắc thật, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa.
Vậy nên hết lòng hổ thẹn, siêng năng tu hành, cầu xin sám hối. Đại chúng đã cùng nhau xem kinh, đã đồng thấy những việc
như trên, nếu không cố gắng, lười biếng muốn thối lui thì việc tu hành không do đâu có kết quả.
Ví như người nghèo thiếu lòng thèm khát các vị cao lương mà thật tế không có một vị nào rốt cuộc cũng không có ích gì cho
sự thèm khát khổ não kia.
Cho
nên biết rằng: người nào muốn cầu có pháp môn nhiệm mầu thù thắng, muốn
độ thoát hết thảy chúng sanh, người ấy không
thể nói suông rằng: tôi chỉ tu tâm mà được. Người ấy cần phải có tâm
mà cũng cần phải thật hành bằng sự tướng nữa mới được. Cần phải có sự
có lý. Sự lý đi đôi công việc mới có kết quả hoàn toàn,
thành tựu viên mãn.
Vậy
nên Đại chúng phải nỗ lực tinh tấn tu hành cầu xin sám hối. Cùng nhau
chí tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ Tam bảo.
Nguyện xin thay thế hết thảy chúng sanh trong đường địa ngục, đường
ngã quỉ, đường súc sanh và đường nhơn loại mà cầu xin sám hối.
Lại nguyện vì cha mẹ, sư trưởng thiện ác tri thức và cùng hết thảy bà con mà cầu xin sám hối. Những tội đã làm rồi nguyện
xin trừ diệt. Những tội chưa làm thề không dám làm.
Nhất tâm đảnh lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Đề Sa Phật
Nam mô Minh Diệu Phật
Nam mô Trì man Phật
Nam mô Công đức minh Phật
Nam mô Thị Nghĩa Phật
Nam mô Đăng Diệu Phật
Nam mô Hưng Thịnh Phật
Nam mô Dược Sư Phật
Nam mô Thiện Nhu Phật
Nam mô Bạch Hào Phật
Nam mô Kiên cố Phật
Nam mô Phước oai đức Phật
Nam mô Bất khả hoại Phật
Nam mô Đức Tướng Phật
Nam mô La Hầu Phật
Nam mô Chúng chủ Phật
Nam mô Phạm Thanh Phật
Nam mô Kiên Tế Phật
Nam mô Bất Cao Phật
Nam mô Tác Minh Phật
Nam mô Đại Sơn Phật
Nam mô Kim Cang Phật
Nam mô Tương chúng Phật
Nam mô Vô úy Phật
Nam mô Trân Bảo Phật
Nam mô Sư tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư tử Tác Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại
quy y như vậy mười
phương, tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo dùng
đại từ bi lực, đại trí huệ lực, vô lượng tự tại thần lực không thề tư
nghị; độ thoát nhất thế chúng sanh lực, trong lục đạo,
diệt trừ hết thảy đau khổ cho chúng sanh trong lục đạo; khiến các
chúng sanh ấy đoạn trừ hết tội nghiệp trong ba đường ác; rót ráo không
tạo năm tội nghịch; không tạo mười ác nghiệp nữa. Từ nay
trở đi các chúng sanh ấy không sanh vào chỗ khổ báo, được sanh về
Tịnh độ; bỏ mạng sống khổ báo được mạng sống trí huệ; bỏ thân khổ báo
được thân kim cang; bỏ khổ ác thú được vui Niết bàn; nhớ
khổ trong ác thú, phát tâm Bồ đề. Bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật
thường được hiện tiền. Bốn vô ngại biện, sáu sức thần thông được tự tại
như ý, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, và
thắng tấn tu hành đến khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết
thảy chúng sanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét