CHƯƠNG THỨ TÁM
RA KHỎI ĐỊA NGỤC
Ngày nay Đại chúng trong đồng nghiệp Đạo tràng nên biết rằng: Vạn pháp không đồng, công dụng bất nhất, như sáng và tối đối
đãi nhau. Tuy nhiên chỉ có thiện và ác là gồm thâu tất cả.
Làm thiện được quả báo tốt đẹp ở các cõi trời, cõi người. Làm ác thời mắc quả báo xấu xa, đau khổ kiệt liệt trong ba đường
ác.
Đó
là hai sự thật rõ ràng trên đời, không phải giả dối. Nhưng người ngu si
lầm lạc phần nhiều sanh tâm nghi ngờ; hoặc cho
cõi trời là chuyện bịa đặt; địa ngục là lời nói dối, không có. Những
người ấy không biết suy nhơn nghiệm quả; không biết xét quả tìm nhơn.
Người không biết phân biệt nhơn quả thì cứ chấp lấy sự
hiểu biết sai lầm của thế gian. Không những chấp không, chấp có mà
còn làm thơ làm bài để biếm xích. Tâm họ trái với điều thiện lợi mà
không hề tự biết sai lầm. Giả như có người chỉ bảo cho thì
họ càng chấp chặt lấy thiên kiến; sai lầm còn kiên cố hơn nữa. Những
người như thế là họ tự gieo đầu vào đường ác. Trong nháy mắt liền thẳng
xuống địa ngục, từ thân hiếu tử không thể cứu được. Họ
đi vào hầm lửa, vạc dầu trước hơn ai hết. Họ đi thiêu thân trong lửa
nóng vạc dầu sôi mà không tự biết. Thân tâm tan nát, tinh thần thống
khổ, khi ấy ăn năn không kịp.
Ngày nay Đại chúng trong Đạo tràng thấy rõ thiện ác nương nhau như bóng theo hình, như vang theo tiếng.
Tội phước hai đường tuy khác nhau nhưng cũng phải đợi kỳ trã quả báo nghiêm nhặt, mong sau mọi người đều sáng suốt tin
tưởng không sanh tâm nghi ngờ.
Sao gọi là địa ngục?
Kinh dạy rằng:
Trong
tam thiên đại thiên thế giới, ở giữa khoảng hai núi Thiết vi. chỗ tối
tăm nhất gọi là Địa ngục. Thành bằng sắt, dài
rộng một ngàn sáu trăm vạn dặm. Trong thành chia ra tám vạn bốn ngàn
ngăn. Dưới lấy sắt làm đất, trên lấy sắt làm lưới. Lửa đốt thành ấy
trong ngoải cháy đỏ chảy ra nước. Lửa trên cháy suốt xuống
dưới, lửa dưới cháy suốt bốc lên trên.
Tên riêng của mỗi ngục là:
Ngục nhóm họp
Ngục tối tăm
Ngục xe dao
Ngục rừng kiếm
Ngục máy sắt
Ngục rừng gai
Ngục võng sắt
Ngục hang sắt
Ngục hoàn sắt
Ngục đá nhọn
Ngục hầm than
Ngục rừng cháy.
Ngục hổ lang
Ngục kêu la.
Ngục nước sôi
Ngục than nóng
Ngục núi dao
Ngục rừng kiếm
Ngục đá mài lửa
Ngục thành lửa.
Ngục cột trụ đồng
Ngục giường sắt
Ngục xe lửa.
Ngục bánh xe lửa
Ngục uống nước đồng sôi
Ngục khạc ra lửa
Ngục hết sức nóng
Ngục hết sức lạnh,
Ngục rút lưỡi,
Ngục đóng đinh vào thân
Ngục trâu cày
Ngục chém chặt
Ngục đao binh
Ngục mổ xẻ
Ngục sông tro.
Ngục tiểu dãi trào lên
Ngục giá lạnh
Ngục bùn lầy
Ngục ngu si
Ngục khóc lóc
Ngục đui điếc
Ngục câm ngọng
Ngọng lưỡi câu sắt
Ngục mổ sắt nhọn.
Lại có những đại tiểu tiện nê lê a tỳ địa ngục.
Phật bảo đức A Nan:
Sao gọi là A tỳ địa ngục?
– A : nghĩa là vô
– Tỳ : nghĩa là già
– A : nghĩa là vô
– Tỳ : nghĩa là cứu.
Nói chung lại A Tỳ nghĩa là vô già, vô cứu: không ngăn dứt, không cứu vớt được.
Lại nữa:
– A là không gián đoạn.
– Tỳ là không lay động.
– A là hết sức nóng nhiệt.
– Tỳ là hết sức khổ não.
– A là không an nhàn.
– Tỳ là không an trú.
Tóm lại: A tỳ nghĩa là hết sức hành hạ, không tạm nghỉ, không gián đoạn, không lay chuyển; hết sức khổ não, như nung như
nấu, không an nhàn, không chấm dứt, cứ hành phạt mãi mãi nên gọi là A tỳ.
Lại nữa:
– A là đại diện: là lửa dữ.
– Tỳ là mãnh liệt, là nóng dữ.
Lửa dữ nhập tâm, gọi là a tỳ địa ngục.
Phật dạy Ngài A Nan: Địa ngục A tỳ dài rộng bằng nhau ba mươi hai vạn dặm. Bảy lớp thành sắt, bảy lớp lưới sắt bao bọc
ngục a tỳ. Dưới có mười tám ngăn, xung quanh có bảy lớp thành, đều có đặt rừng dao.
Trong
bảy lớp thành lại có rừng gươm. Dưới mười tám ngăn, ngăn có tám vạn bốn
ngàn lớp. Bốn góc đều có bốn đại đồng cẩu,
thân dài lớn đến một vạn sáu ngàn (16.000) dặm, mắt như điện chớp,
răng như cây gươm, nanh như núi dao, lưỡi như mũi sắt nhọn toàn thân
chân lông phun lửa dữ, hơi bay như khói, hơi thúi khó chịu,
thế gian không có vật gì thúi bằng.
Lại
có mười tám ngục tốt đầu như đầu la sát miệng như miệng dạ xoa. Chó có
sáu mươi bốn con mắt, mắt tung ra xa những hoàn
sắt nóng: như xe chạy xa mười dặm. Răng phía trên cao một trăm sáu
mươi dặm. Trên đầu răng tuông ra lửa dữ, đốt cháy xe sắt phía trước, làm
cho bánh xe kia mỗi lỗ lưỡi tròn hóa làm một ức con dao
lửa , kiếm kích sắc bén; những lưỡi nhọn đều từ trong lửa dữ ấy lưu
xuất. Lửa ra như suối chảy đốt cháy ngục thành a tỳ. Thành cháy đỏ như
nước đồng sôi.
Bọn
ngục tốt kia đẩu có tám đầu trâu, mỗi mỗi đầu đều có mười tám cái sừng.
Trên đẩu mỗi sừng tuông ra một đống lửa lớn.
Đống lửa lớn lại hóa ra bánh xe dao lớn. Như bao nhiêu bánh xe, mỗi
mỗi bánh xe thứ lớp theo nhau chạy trong lửa dữ ghê gớm, đầy cả a tỳ địa
ngục.
Ở dưới đất thì có chó đại đồng cẩu hà miệng le lưỡi. Lưỡi như đòn xóc nhọn; le ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy cả a tỳ
địa ngục.
Ở trong bảy lớp thành có bảy lớp cờ. Ở đầu mỗi cờ lửa tuôn ra như suối trào vọt, nước sắt chảy cả a tỳ địa ngục.
Bốn cửa thành ngục a tỳ, ở trên mỗi ngưỡng cửa có mười tám chảo nước đồng sôi trào ra rồi chảy tràn đầy cả thành a
tỳ.
Trong mỗi ngăn. Địa ngục lại có tám vạn bốn ngàn rắn mãn xà sắt, phun độc, phun lửa thân hình lớn đầy thành, kêu la như
sấm dậy, mưa xuống những hoàn sắt nóng lớn đầy cả thành a tỳ.
Nỗi khổ trong thành kể đến tám vạn ức thiên. Bao nhiêu thống khổ trong những thống khổ đều tích tụ ở trong thành
nầy.
Lại có năm trăm ức con trùng ở trong thành, mỗi con trùng có tám vạn bốn ngàn mỏ nhọn. Đầu mỗi mỏ nhọn có lửa tuôn như mưa
xối, đầy cả thành a tỳ.
Mỗi
khi trùng ấy rơi xuống thì lửa dữ trong thành a tỳ bốc ngọn lên dữ dội,
hừng hực sáng choang. Lửa mạnh ấy chiếu đến ba
trăm ba mươi sáu vạn dặm. Từ a tỳ ngục xông lên biển cả dưới núi ốc
tiêu nước biển cả giọt xuống, mỗi giọt lớn bằng trục bánh xe to, thành
ra những mũi nhọn sắt lớn, đầy cả thành a tỳ.
Phật
bảo Ngài A Nan: Như chúng sanh nào giết cha hại mẹ, nhục nhã sáu giòng
bà con, người ấy khi mạng chung chó sắt hả
miệng, hóa làm mười tám bánh xe, giống như xe vàng, có bảo cái che
trên. Hết thảy mũi lửa nhọn kia hóa làm ngọc nữ. Người có tội kia xa
trông thấy, sanh tâm vui mừng. Nghĩ rằng: “Ta muốn đến đó
chơi, Ta muốn đến đó chơi”. Khi đến rồi, thì bị gió phong đao xẻ
thân, lạnh quá chừng. Tội nhơn lại nghĩ: Há được lửa tốt, ngồi trên xe
đốt lên mà hơ! Nghĩ như thế rồi thì liền chết. Trong giây
phút lại thấy mình ngồi trên xe vàng ngắm xem ngọc nữ. Nhưng bị ngọc
nữ cầm búa sắt chém thân. Dưới thân lửa bốc hừng hực, mau như chớp
nhoáng, trong nháy mắt lại rơi vào a tỳ địa ngục.
Từ
ngăn trên, chớp mắt đọa xuống ngăn dưới. Thân lớn đầy ngăn. Chó đồng
cẩu lớn tiếng sủa lên và nhai xương nuốt tủy. Ngục
tốt la sát cầm xoa sắt lớn xoa đầu bắt đứng dậy; lửa cháy khắp thân,
cháy luôn thành a tỳ. Lưới sắt tuông mưa dao. Dao theo lỗ chân lông vào
trong thân thể, hóa làm vua Diêm Vương. Vua lớn tiếng
bảo rằng: “Kẻ ngu si, giống ngục tốt kia, ngươi ở dương thế, bất
hiếu với cha mẹ, tà mạng không đạo đức nên phải đọa vào chỗ nầy, gọi là a
tỳ Địa ngục. Ngươi là người không biết ơn, không hổ
thẹn. Ngươi chịu khổ não như thế có sướng không?” Nói rồi, biến mất.
Bấy giờ ngục tốt lại đuổi tội nhơn từ ngăn dưới lên ngăn trên. Phải trải qua tám vạn bốn ngàn ngăn giữa mới qua khỏi lớp
lưới sắt cuối cùng một ngày một đêm mới khắp a tỳ địa ngục. Một ngày một đêm ở địa ngục bằng sáu chục tiểu kiếp ([7]) ở dương gian. Tội nhơn sống như vậy trong địa ngục một đại kiếp
([8]).
Người
phạm tội ngũ nghịch không biết hổ thẹn nên gây tội ấy. Vì tội ngũ
nghịch nên lúc lâm chung có mười tám thứ phong đao
như xe lửa sắt cắt xẻ thân thể. Tội nhơn vì nóng bức nên nói thế
này: “Nếu ta có các thứ hoa sắc đẹp ấy, cây đại thọ mát mẻ kia, ở đó dạo
chơi há không vui sao!”
Nghĩ như thế rồi thì có tám vạn bốn ngàn rừng ác kiếm hóa làm cây báu, hoa quả tốt tươi, sắp bày ra trước mắt lửa nóng
hừng hực hóa làm hoa sen nơi gốc cây kia. Tội nhơn thấy vậy liền nghĩ thầm: “Ta đã mãn nguyện”.
Trong
nháy mắt, tội nhơn liền ngồi trên hoa sen. Trong khoảnh khắc, các trùng
mỏ nhọn, từ trong hoa lửa sanh ra rúc ráy
cốt tủy, thấu suốt tâm can. Tội nhơn phải vịn cây đứng dậy. Các
nhành cây hóa thành lưỡi kiếm, róc thịt chẻ xương, vô lượng rừng đao từ
không trung rơi xuống. Những lò hổng xe lửa mười tám điều
đau khổ nhất thời đưa đến.
Những cảnh tượng nầy hiện ra thì tội nhơn bị hãm xuống địa ngục từng dưới; rồi từ từng dưới lên từng trên. Thân hình lột
hết như hoa nở. Trải khắp ngăn dưới, rồi lên ngăn trên, bị lửa mạnh thiêu đốt dữ dội.
Đến
ngăn trên rồi, thân hình tràn khắp ngăn ấy, bị khổ não nung nấu vô
cùng. Tội nhơn phải trợn mắt le lưỡi. Vì phạm
tội ngũ nghịch, nên bị vạn ức đồng sôi, trăm ngàn đao luân, từ trên
không rơi xuống, vào trên đầu, ra dưới chân; đau khổ còn gấp bội hơn
trước nữa một trăm , một ngàn vạn phần. Người phạm đủ năm
nghịch tội phải chịu tội đủ năm kiếp .
Lại
nữa nếu người nào phá cấm giới của Phật, luống ăn dùng của tín thí, phỉ
báng Tam bảo, tà kiến, không biết nhơn quả,
không học trí huệ Bát nhã, khinh chê mười phương Phật, trộm cắp của
pháp, làm việc ô uế bất tịnh hạnh, không hổ thẹn, hủy nhục bà con, tạo
các điều ác, người ấy khi sắp lâm chung, tội báo bị
phong đao xẻ thân, nằm ngửa bất tỉnh, như bị đánh đập.
Tư tưởng hoang mang, si mê lầm lẫn. Thấy nhà cửa và con cái nam nữ, và lớn nhỏ, cùng tất cả sự vật của mình đều bất tịnh.
Tiểu dãi hôi thối, tràn đầy thân thể. Bấy giờ người ấy nghĩ rằng:
“Sao đây không có thành quách và núi rừng tốt đẹp, để ta dạo chơi mà lại ở giữa đám bất tịnh ô uế nầy ư?”
Nghĩ
như thế rồi, liền bị ngục tối la sát lấy cái xoa sắt lớn đánh ngục a
tỳ, và các rừng đao hóa làm cây báu, và ao hồ
mát mẻ, lửa dữ hóa làm hoa sen lá vàng; những con trùng sắt mỏ nhọn
hóa làm chim phù nhan. Những tiếng thống khổ trong địa ngục như âm thanh
ca vịnh.
Tội
nhơn trông thấy tốt đẹp như vậy liền nghĩ rằng: “Ta mau đến đó mà dạo
chơi”. Nghĩ xong kiền thấy mình ngồi trên hoa
sen lửa. Các trùng sắt mỏ nhọn từ các lỗ chân lông trong thân rúc
ra, cắn rức thân thể. Trăm ngàn bánh xe sắt từ trên đánh vào thân; hằng
hà sa số xoa sắt, khiêu múc tròng mắt. Chó đồng cẩu trong
địa ngục hóa làm trăm ức chó sắt dành nhau cấu xé thân hình tội
nhơn, lấy trái tim mà ăn. Trong nháy mắt, thân thể đã thành cánh hoa
sắt, tràn khắp mười tám ngăn ngục, mỗi mỗi hoa có tám vạn bốn
ngàn lá, mỗi mỗi lá, đầu mình tay chân chi tiết đều ở trong một
ngăn; địa ngục không lớn thân nầy không nhỏ cho nên biến khắp địa ngục.
Những
tội nhơn nầy đọa vào địa ngục ấy tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Ngục nầy
tiêu diệt rồi lại vào trong mười tám ngăn ngục
khác, chịu khổ như trên. A tỳ ngục nầy về phương Nam cũng có 18
ngăn; phương Tây cũng có mười tám ngăn, phương Bắc cũng có mười tám
ngăn.
Hủy
báng các kinh Phương đẳng Đại thừa tạo đủ năm tội nghịch; phá hoại Hiển
Thánh, đoạn các căn lành. Những người như vậy
chịu đủ tội lỗi. Thân lớn khắp A tỳ địa ngục; tứ chi trải khắp cả
mười tám ngăn A tỳ địa ngục nầy chỉ thiêu đốt những chúng sanh tạo giống
địa ngục như trên. Khi kiếp địa ngục sắp hết thì thấy
cửa địa ngục phương Đông liền mở. Tội nhơn nhìn thấy ngoài cửa ấy có
dòng nước trong chảy mát mẻ; có rừng cây hoa quả tốt tươi hiện ra những
tội nhơn ở ngăn dưới nhìn thấy thì mắt tạm bớt đổ lửa.
Từ ngăn dưới vươn mình lên quằn quại bò đi, tuột cả thân hình mà
chạy lên ngăn trên, tay vịn bánh xe đao. Bấy giờ trên không trung mưa
xuống những hoàn sắt nóng. Tội nhơn chạy đến cửa phương
Đông. Vừa đến cổng thì ngục tốt la sa tay cầm xoa sắt đâm ngược vào
tròng mắt của tội nhơn.
Chó đồng cẩu nhai ngầu trái tim; tội nhơn phải chết ngất. Chết rồi sống lại, thấy cửa phương Nam mở như cửa phương trước
kia không khác.
Cửa phương Tây, phương Bắc cũng đều như vậy. Trải qua thời gian nửa kiếp, tội nhơn phải chết trong A tỳ địa ngục.
Chết
rồi sống lại sanh vào địa ngục giá lạnh rồi chết trong địa ngục hàng
băng này. Chết rồi lại sống; sống rồi lại
sanh vào địa ngục hắc ám, một trăm, một ngản vạn năm mắt không trông
thấy, thân làm con đại trùng, quằn quại bỏ đi; các căn ([9])
ám độn, không hiểu biết gì phải quấy lại bị một trăm một ngàn hổ
lang lôi kéo dành ăn. Chết rồi lại sanh vào loài súc sanh, năm ngán
vạn năm làm thân chim muông. Khổ sở như thế cho đến khi hết tội, được
sanh làm người. Nhưng lại phải đui, điếc, ngọng, lịu,
phung hủi, ung thư, bần cùng hạ tiện. Bao nhiêu suy đồi khổ sở mình
phải tự rước lấy. Làm thân hèn hạ như vậy năm trăm lần sống thác. Lại
sanh vào loài quỉ đói. Ở trong ngã quỉ gặp được thiện tri
thức các vị đại Bồ tát quở trách nói rằng:
“Người ở trong vô lượng đời về trước đã tạo ra vô lượng tội, phỉ báng Tam bảo, không tin nhơn quả nên đọa trong A tỳ địa
ngục chịu nhiều khổ não không thể kể xiết. Nay ngươi nên phát tâm từ bi”.
Bấy giờ các ngã quỉ nghe lời ấy rồi liền xưng Nam mô Phật.
Nhờ sức hồng ân của chư Phật, liền được mạng chung, sanh lên cõi trởi tứ thiên. Sanh lên đó rồi , ăn năn tự trách, phát
tâm Bồ đề.
Tâm quang của các chư Phật không bỏ những người phát tâm nầy, thâu nhiếp những người phát tâm như vậy và thương mến như La
Hầu La. Dạy bảo tránh xa địa ngục, không cho thân xa đọa như quý tròng con mắt.
Phật
bảo Đại vương: “Muốn biết hào quang chư Phật thường chiếu nơi nào thì
hãy xem hào quang ấy thường chiếu những nơi
chúng sanh đau khổ như vậy không gián đoạn, không người cứu vớt. Tâm
Phật thường biết nơi đâu? Thường biết những nơi chúng sanh chịu hành
phạt cực hình, cực ác như vậy. Vậy đem tâm Phật mà trau
dồi tâm mình, trải qua nhiều số kiếp, khiến các người ác kia phát
tâm Bồ đề”.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật Thế Tôn nói các thống khổ như trên thì gia tâm giữ ý, chớ sanh
lòng buông lung. Nếu Đại chúng không siêng năng lập phương tiện tu hành Bồ tát đạo thì ở trong mỗi địa ngục đều vô tội phần.
Ngày
nay Đại chúng nên vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu thống khổ trong
A tỳ đaị ngục, vì hết thảy chúng sanh sẽ chịu
thống khổ trong A tỳ địa ngục, và rộng ra cho đến hết thảy chúng
sanh hiện chịu, và sẽ chịu vô cùng vô tận thống khổ trong hết thảy địa
ngục ở mười phương mà đầu thảnh đảnh lễ quy y Thế gian Đại
Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Quá khứ thất Phật
Nam mô Thập phương thập Phật
Nam mô Tam Thập Ngũ Phật
Nam mô Ngũ Thập Tam Phật
Nam mô Bách Thất Thập Phật
Nam mô Trang nghiêm kiếp thiên Phật
Nam mô Hiền kiếp thiên Phật
Nam mô Tinh tú kiếp thiên Phật
Nam mô Thập phương Bồ tát Ma ha tát
Nam mô Thập Nhị Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại xin quy y mười phương
tận hư không giới vô lượng hình tượng:
Tượng vàng và tượng chiên đàn của vua Ưu Điển.
Tượng đồng của vua A Dục.
Tượng đá của Ngô Trung.
Tượng ngọc của Sư tử.
Tượng vàng, tượng bạc, lượng lưu ly, tượng san hô, tượng hổ phách, tượng xa cừ, tượng mã não, tượng trân châu, tượng ma
ni, tượng vàng từ ma thương sắc diêm phù đàn ở trong các quốc độ.
Lại quy y hết thảy các tháp thở tóc của mười phương Phật:
Quy y hết thảy các tháp thờ hàm răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ móng tay.
Quy y hết thảy các tháp thờ xương trên đảnh.
Quy y hết thảy các tháp thờ xá lợi trong thân.
Quy y hết thảy các tháp thờ cà sa.
Quy y hết thảy các tháp thờ muổng, bình bát.
Quy y hết thảy các tháp thờ bình tắm rửa.
Quy y hết thảy các tháp thờ tích trượng.
Quy y hết thảy các nơi làm Phật sự như vậy.(1 lạy)
Lại quy y nơi tháp Phật giáng sanh, quy y tháp Phật đắc đạo:
Quy y tháp Phật chuyển pháp luân.
Quy y tháp Phật nhập Niết bàn.
Quy y tháp trên trời, tháp ở nhân gian và tất cả bảo tháp ở trong cung Long Vương.(1lạy)
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật:
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp.
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
Nguyện
xin Tam bảo đồng đem từ bi lực an ủi chúng sanh lực, vô lượng đại tự
tại lực, vô lượng đại thần lực, thâu nhiếp thọ
lãnh chúng con ngày nay sám hối thế cho hết thảy chúng sanh đang
chịu khổ trong A tỳ đại địa ngục, sám hối thế rộng ra cho đến hết thảy
chúng sanh trong tất cả địa ngục ở mười phương, nhiều không
thể kể xiết; sám hối thế cho cha mẹ, sư trưởng và tất cả bà con
quyến thuộc nguyện xin Tam bảo dùng nước đại bi tẩy trừ tội lỗi cho hết
thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong A tỳ địa ngục và
trong những địa ngục khác, khiến chúng sanh được thanh tịnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét