TÂM MINH LỤC THÔNG

Lương Hoàng Sám (P2) - Chương thứ 9: Giải oan thích kiết

Lương Hoàng Sám (P2)
 
Nguyện xin Tam bảo tẩy trừ tội lỗi cho chúng sanh, hiện đồng sám hối trong Đạo tràng hôm nay; tẩy trừ tội lỗi cho tất cả cha mẹ sư trưởng, cho hết thảy bà con quyến thuộc của chúng con, khiến tội lỗi được thanh tịnh.
Lại xin tẩy trừ tội lỗi cho tất cả chúng sanh trong sáu đường, khiến chúng sanh thẳng đến Đạo tràng hoàn toàn thanh tịnh. Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật chúng sanh đều đoạn trừ được hết khổ não trong a tỳ địa ngục. Rộng ra nữa là đoạn trừ hết thảy thống khổ nhiều không thể nói, không thể nói trong các địa ngục, ở mười phương tận hư không giới. Chúng sanh ấy rốt ráo không còn đọa trở lại trong ba đường ác, rốt ráo không còn đọa trở lại trong các địa ngục. Rốt ráo không còn tạo trở lại mười ác nghiệp ; không còn tạo trở lại năm tội nghịch để chịu khổ não. Tất cả các tội, nguyện đều tiêu diệt, bỏ sống địa ngục, được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục, được mạng trí huệ, bỏ thân địa ngục, được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục, được vui Niết bàn; nhớ khổ địa ngục, phát tâm Bồ đề, tứ đẳng lục độ thường được hiện tiền; tứ biện lục thông đều được tự tại như ý; đầy đủ trí huệ, tu đạo Bồ tát, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu hành mãi lên cho đến mãn hạnh thập địa vào tâm kim cang, thành đẳng chánh giác để trở lại đời nầy, độ thoát hết thảy chúng sanh trong mười phương.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng còn có các địa ngục khác, chịu khổ rất phức tạp, không thể ghi chép. Danh hiệu như vậy, khổ sở vô cùng. Đại chúng dở xem trong kinh sẽ thấy rõ việc ấy.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Một niệm ác của vua Diêm Vương sanh ra đủ các việc trong địa ngục. Tự thân Diêm Vương chịu khổ cũng không thể kể xiết”.
Diêm La Đại vương xưa kia là vị Tỳ sa quốc vương, nhơn vì cùng với Duy Đà thủy chúa chiến đấu thất bại, bèn lập thệ nguyện: “Nguyện ta đời sau làm chủ ngục trị tội nhơn vậy”.
Mười tám vị đại thần và trăm vạn tùy tùng đồng phát nguyện như vậy.
Tỳ sa vương ấy nay là Diêm la vương, mười tám vị đại thần kia, nay là mười tám ngục vương vậy. 
Trăm vạn chúng tùy tùng nay là ngưu đầu ngục tốt vậy.
Bọn quan thuộc nầy đều lệ thuộc Bắc phương tỳ sa môn thiên vương.
Kinh Trường A Hàm chép:
“Chỗ ở của Diêm La Đại vương tại Diêm phù đề trong núi Kim cang, về phương Nam Vương cung dài rộng sáu ngàn do tuần” ([10]). Kinh Đại địa ngục dạy rằng: “Thành quách cung vua Diêm vương, ở trong địa ngục rộng dài ba vạn dặm; dùng sắt và đồng mà xây dựng”.
Ngày đêm ba thời có chảo đồng lớn đựng đầy nước đồng sôi, tự nhiên để phía trước vua. Có ngục tốt to lớn nằm trên giường sắt nóng của vua, lấy móc sắt đánh miệng vua, rót nước đồng sôi vào miệng vua. Từ yết hầu trở xuống đều cháy tiêu tan. Các Đại thần kia cũng phải chịu tội như vậy.
Mười tám ngục vương ấy tên là:
1.- Ca Diên giữ ngục Nê lê.
2.- Khuất Tôn giữ ngục Đạo sơn.
3.- Phí Thọ giữ ngục Phí sa.
4.- Phí Khúc giữ ngục Phất sí.
5.- Ca Thế giữ ngục Hắc nhĩ.
6.- Hạp Sai giữ ngục Hỏa xa.
7.- Than Vị giữ ngục Hoạch than.
8.- Thích Ca Nhiên giữ ngục Thiết sàng.
9.- Ác Sanh giữ ngục Hạp sơn
10.- Thân Ngâm giữ ngục Hàn băng.
11.- Tỳ Ca giữ ngục Bác bì.
12.- Diêu Đầu giữ ngục Súc sanh.
13.- Đề Bạt giữ ngục Đao binh.
14.- Di Đại giữ ngục Thiết ma.
15.- Duyệt Đầu giữ ngục Khôi hà.
16.- Xuyên Cốt giữ ngục Thiết sách.
17.- Danh Thân giữ ngục Thơ trùng.
18.- Quán Thân giữ ngục Dương đồng.
Những ngục như vậy đều có vô lượng địa ngục khác làm quyến thuộc; mỗi ngục đều có chủ ngục. Ngưu đầu ngục tốt tánh tình bạo ngược không có một mảy từ tâm . Thấy chúng sanh chịu ác báo như vậy chỉ sợ chúng sanh không khổ mà thôi. Nếu hỏi ngục tốt:
“Chúng sanh chịu khổ như vậy rất đáng thương xót, sao các ngươi thường cứ ôm lòng độc ác khốc liệt, không chút thương tâm?”
Ngục tốt liền đáp:
Những người chịu khổ ấy tội ác như thế nầy: “Bất hiếu với cha mẹ, bài báng Phật Pháp, Tăng, chê bai Thánh Hiền, nhục mạ lục thân, khinh mạn sư trưởng, hủy hoại tất cả, nói lời độc ác, nói lời hai lưỡi nịnh hót, tật đố, chia rẽ tình cốt nhục của người , giận hờn nóng nẩy, sát hại tham dục, dối gạt khinh khi, tà mạng, tà cầu, lại do vì tà kiến, giải đãi buông lung gây kết nhiều thù oán”.
Những người như vậy, đến đây chịu khổ rồi, mỗi khi được thoát ra chúng tôi thường khuyên bảo rằng: “Ở đây cực khổ lắm, không thể chịu được. Các người nay được ra rồi chớ nên tạo tội mà phải trở vào đây nữa.”
Nhưng các tội nhơn ấy không chịu chừa bỏ ăn năn, ngày nay ra rồi thoạt vậy lại vào. Lần lựa luân hồi, không biết thống khổ, làm cho chúng tôi phải mỏi mệt vì các chúng sanh ấy. Kiếp nầy kiếp khác, cứ đối đầu nhau mãi. Vì duyên cớ ấy ấy nên chúng tôi đối với tội nhơn không có chút thương tâm, mà còn cố ý làm cho khổ sở thêm nữa.
Chúng tôi mong họ biết khổ, biết hổ, biết thẹn, không trở lại đây nữa.
Chúng tôi xem các chúng sanh ấy thật là chỉ khổ mà không chịu tránh, không chí quyết làm lành để vào Niết bàn.
Họ đã là vật vô tri, không biết tránh khổ tìm vui, sở dĩ họ phải chịu đau khổ hơn ở nhơn gian, thì làm sao chúng tôi có thể dung thứ ma sanh tâm thương được.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hãy đem việc lao ngục ở thế gian mà so sánh thì có thể biết ngay; tin chắc rằng việc nầy không phải là luống dối.
Giả sử có người ba phen đến cửa ngục tuy bà con thân tộc nhưng thấy người ấy cứ vào ra cửa ngục mãi cũng đã chán ngán, không có lòng buồn thương, luống gì ngưu đầu ngục tốt thấy các chúng sanh đã ra lại vào để chịu thống khổ mãi mãi.
Vậy đã thoát khỏi địa ngục rồi thì nên tu tâm dưỡng tánh, cải cách tập quán. Nếu không chừa bỏ thì nhiều kiếp chìm trong biển khổ. Đã vào trong ấy rồi, cứ thứ lớp mà qua, hết khổ nầy đến khổ khác, không bao giờ dừng nghỉ.
Vì vậy nên oán thù ba đời, nhơn quả theo nhau, hai vừng thiện ác chưa từng tạm nghỉ. Việc báo ứng trình bày rõ ràng rất dễ trông thấy. Làm ác gặp khổ, lấy ác trả ác, ở trong địa ngục cùng năm mãn kiếp, chịu thống khổ đủ điều. Hết tội địa ngục lại làm súc sanh. Hết tội súc sanh lại làm quỉ đói; trải qua vô lượng sanh tử, vô lượng thống khổ.
Như thế Đại chúng há có thể không lo tu hành Bồ tát đạo cho kịp thời sao?
Chúng con ngày nay, nhất đầu thành đảnh lễ Tam bảo nguyện vì hết thảy chúng sanh trong đường địa ngục, ngục vương, đại thần, ngưu đầu, ngục tốt và quyến thuộc của chúng khắp mười phương, nguyện vì hết thảy chúng sanh trong đường ngã quỉ vương, ngã quỉ thần v.v... và quyến thuộc của ngã quỉ ở khắp mười phương; nguyện vì hết thảy chúng sanh trong đường súc sanh, súc sanh thần v.v... và quyến thuộc của chúng sanh khắp mười phương; rộng ra nguyện vì hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận trong mười phương mà cầu xin sám hối, cải vãng tu lai, không làm ác nữa. Những tội đã làm nguyện xin diệt trừ, những tội đã làm nguyện xin diệt trừ, những tội chưa làm thề không dám làm.
Nguyện xin hết thảy chư Phật trong mười phương dùng bất khả tư nghị tự tại thần lực gia tâm cứu hộ thương xót nhiếp thọ, khiến tất cả chúng sanh tức thời giải thoát.
Nguyện xin quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Hoa Nhật Phật
Nam mô Quân Lực Phật
Nam mô Hoa Quang Phật
Nam mô Nhơn ái Phật
Nam mô Đại oai đức Phật
Nam mô Phạm vương Phật
Nam mô Vô lượng minh Phật
Nam mô Long đức Phật
Nam mô Kiên Bộ Phật
Nam mô Bất Hư Kiến Phật
Nam mô Tinh Tấn Đức Phật
Nam mô Thiện Thủ Phật
Nam mô Hoan Hỷ Phật
Nam mô Bất Thối Phật
Nam mô Sư Tử Tướng Phật
Nam mô Thắng Trí Phật
Nam mô Pháp Thị Phật
Nam mô Hỷ Vương Phật
Nam mô Sa Ngự Phật
Nam mô Ái Tác Phật
Nam mô Đức Tý Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Quán Thị Phật
Nam mô Vân Âm Phật
Nam mô Thiện Tư Phật
Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biến Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo dủ lòng Từ bi, tự tại thần lực cứu vớt chúng sanh trong đường địa ngục, ngục vương, đại thần và quyến thuộc của các vị ấy cùng mười tám địa ngục.
Mười tám ngăn địa ngục nầy đều có mhiều địa ngục khác làm quyến thuộc.
Nguyện xin Tam bảo cứu vớt hết thảy ngưu đầu ngục tốt và tất cả chúng sanh chịu khổ trong đường địa ngục, khiến các chúng sanh ấy đều được giải thoát. Tội nhơn khổ quả đồng thời tiêu diệt. Từ nay trở đi, rốt ráo vĩnh viễn đoạn trừ hết nghiệp địa ngục, rốt ráo không đọa trong ba đường ác, bỏ sống địa ngục, được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục, được mạng trí huệ, bỏ thân địa ngục, được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục được vui Niết bàn. Nhớ khổ địa ngục, phát tâm bồ đề; tứ đẳng lục độ thường được hiện tiền. Tứ biện lục thông như ý tự tại.
Dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tiến lên cho đến mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh, đồng nhập kim cang, thành đẳng chánh giác. 
CHƯƠNG TH CHÍN 
GIẢI OAN THÍCH KIẾT 
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hiểu rõ tất cả chúng sanh đều có oán thù với nhau.
Vì sao mà biềt?
Vì không có oán thù thì không có ác đạo. Nay ác đạo không dứt, ba đường còn mãi, nên biết oán thù không bao giờ cùng tận .
Kinh dạy rằng:
“Hết thảy chúng sanh đều có tâm. Vì có tâm nên đều được làm Phật”.
Nhưng chúng sanh tâm tưởng điên đảo, tham đắm thế gian, không biết lối ra, cứ vun trồng gốc khổ não, bồi đắp cội oán thù. Sở dĩ phải luân hồi ba cõi qua lại sáu đường, xả thân lại thọ thân không bao giờ cùng tận.
Vì sao vậy?
Vì vậy hết thảy chúng sanh từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, mê muội mãi mãi, vô minh che lấp, nước ái nhận chìm, nên khởi ra ba độc căn, khởi ra bốn điên đảo. Từ ba độc căn ấy sanh ra mười phiền não ([1]). Y nơi thân kiến khởi ra ngũ kiến ([2]). Y nơi ngũ kiến khởi ra sáu mươi hai kiến ([3]). Y nơi thân, khẩu, ý khởi ra mười hạnh ác. Thân, sát, đạo, dâm miệng vọng ngôn, ỷ ngữ lưỡng thiệt, ác khẩu, ý tham, sân, si.
Tự mình làm mười điều ác, dạy người làm mười điều ác, khen ngợi người làm mười điều ác. Như vậy, y nơi thân, khẩu, ý khởi ra bốn chục điều ác.
Lại y nơi sáu căn tham đắm sáu trần hơn nữa là mở rộng cửa ác cho tám vạn bốn ngàn trần lao xâm nhập. Trong khoảng một niệm khởi ra sáu mươi hai kiến chấp. Trong khoảng một niệm tạo đủ bốn chục điều ác. Trong khoảng một niệm mở cửa cho tám vạn bốn ngàn trần lao, huống nữa trong khoảng một ngày thì khởi ra biết bao tội ác; huống nữa trong khoảng một tháng khởi ta biết bao tội ác; huống nữa một năm khởi ra biết bao tội ác; huống nữa chung thân lịch kiếp khởi ra biết bao tội ác.
Tội ác như vậy, vô lượng vô biên oán thù theo nhau không bao giờ cùng tận.
Nhưng chúng sanh đồng sanh với ngu si, vô minh che lấp trí huệ, phiền não che lấp tâm tánh, chúng sanh không tự hiểu biết.
Tư tưởng điên đảo không tin lời kinh, không tin lời Phật, không biết giải oan, không tông giải thoát.
Chúng sanh tự reo mình vào đường ác, như phủ du tự reo mình vào đèn sáng, nhiều kiếp mê muội, chịu vô lượng khổ.
Giả sử nghiệp báo hết rồi, được trở lại làm người, thì người ác như thế, trọn không cải cách, nên Thánh nhân phải sanh tâm thương sót. Như vậy cũng chỉ vì chúng sanh có oán thù với nhau mà ra.
Chúng con nay đã phát tâm Bồ đề, tu Bồ tát đạo thấy Bồ tát Ma ha tát, lấy việc cứu khổ làm tư lương, lấy việc giải oan kết làm yếu hạnh. Bồ tát không xả bỏ chúng sanh mà lấy việc cứu khổ, chịu khổ thế cho chúng sanh làm nền tảng.
Chúng con ngày nay cũng phải như vậy; phải khởi tâm dõng mãnh, khởi tâm từ bi, tâm đồng như tâm Phật, nương nhờ Phật lực, dựng phan Đạo tràng, đánh trống cam lồ, cầm cung trí huệ, nắm tên kiên cố, nguyện vì hết thảy tứ sanh lục đạo oán thù ba đời, cha mẹ, sư trưởng, lục thân quyến thuộc mà cởi mở oán thù.
Những oán thù đã kiết đều xả bỏ, những oán thù chưa kiết, rốt ráo không kết nữa.
Nguyện xin chư Phật, chư Bồ tát, dùng từ bi lực, dùng bổn nguyện lực, dùng thần thông lực, đồng gia tâm che chở, chiết phục, nhiếp thọ, làm cho vô lượng oán thù ba đời từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật cởi mở sạch hết, không còn kết oán thù trở lại, hết thảy khổ não hoàn toàn đoạn trừ.
Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện xin thế cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường; oán thù ba đời; nguyện xin thế cho cha mẹ, sư trưởng và hết thảy bà con quyến thuộc mà quy y Thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thiện Ý Phật
Nam mô Ly Cấu Phật
Nam mô Nguyệt Tướng Phật
Nam mô Đại Danh Phật
Nam mô Châu Kế Phật  
Nam mô Oai Mãnh Phật
Nam mô Sư Tử Bộ Phật
Nam mô Đức Thọ Phật
Nam mô Hoan Thích Phật
Nam mô Huệ Tụ Phật
Nam mô An Trú Phật
Nam mô Hữu Ý Phật
Nam mô Ương Già Đà Phật
Nam mô Vô Lượng Ý Phật
Nam mô Diệu Sắc Phật
Nam mô Đa Trí Phật
Nam mô Quang Minh Phật
Nam mô Kiên Giới Phật
Nam mô Cát Tường Phật
Nam mô Bảo Tướng Phật
Nam mô Liên Hoa Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô An Lạc Phật
Nam mô Trí Tích Phật
Nam mô Đức Kỉnh Phật
Nam mô Kiên Dõng tinh tấn Bồ tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
 Tất cả oán thù như vậy nay ở trong lục đạo, những người đã chịu trả oán rồi, nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực, khiến các chúng sanh ấy điều được giải thoát. Hoặc có chúng sanh nào ở trong lục đạo đang chịu trả oán, hoặc chưa chịu trả oán, nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực, khiến các chúng sanh ấy hoàn toàn không trở lại trong các đường ác nữa, hoàn toàn không có ác tâm đến với nhau nữa, hoàn toàn không làm độc hại khổ sở nhau nữa; tất cả đều xả bỏ, không còn phân biệt oán thân nữa. Tất cả tội lỗi đều được tiêu trừ. Tất cả oán thù đều được giải thoát, cùng nhau đồng tâm, hoà hiệp như nước với sữa, tất cả đều được hoan hỷ như ở Sơ địa ([4]). Thọ mạng vô cùng, thân tâm an lạc mãi, tùy ý sanh lên Thiên cung hay vãng sanh về Tịnh độ. Tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, không còn nghe tiếng oán thù đấu tranh nữa.
Thân không bị sự biến diệt xâm lăng, tâm không bị ngoại trần mê hoặc nhiễm trước. Điều lành tranh nhau nhóm họp. điều ác tranh nhau tiêu tan; phát tâm Đại thừa tu đạo Bồ tát. Tứ đẳng lục độ đầy đủ, xả bỏ quả báo sanh tử, đồng đăng Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng biết cái gì là nguồn gốc của oán thù đau khổ?
Chính vì mắt tham sắc, tai tham tiếng, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân tham xúc tế nhị, nên chúng sanh thường bị năm ngoại trần ràng buộc nhiều kiếp ở trong đêm dài mờ mịt, không được giác ngộ và giải thoát.
Lại nữa sáu giòng bà con, tất cả quyến thuộc đều là nguồn gốc oán thù ba đời của chúng ta vậy.
Tất cả oán thù đều do nhân khởi ra. Nếu không có thân thì không có oán. Vậy ly thân tức là ly được oán.
Vì cớ gì vậy?
Mỗi người ở một xứ, xa cách tha hương, như thế thì trọn không thể sanh tâm oán hận. Tâm oán hận sanh ra được đều do thân cận với nhau.
Vì gốc ba độc tham, sân, si nên xúc não nhau; vì xúc não nhau nên phần nhiều hay sanh tâm oán hận.
Sở dĩ bà con thân thích hay trách lẫn nhau. Hoặc cha mẹ trách con, hoặc con trách cha mẹ; anh em chị em hết thảy đều hay trách lẫn nhau, và hiềm hận lẫn nhau.
Có chút gì không bằng lòng liền sanh tâm giận dữ.
Nếu giàu sang phú quý thì nhìn bà con, đua nhau đến xin; khi nghèo thiếu thì không ai để ý.
Lại nữa càng xin càng lấy làm thiếu; càng được càng lấy làm không đủ. Trăm lần xin, trăm lần được cũng không lấy làm ơn, hơi không vừa lòng trở lại giận hờn. Từ đó đã bắt đầu lòng ôm ác niệm, nghĩ tìm cách cố ý kết thù liên họa, đời đời không thôi.
Suy ra mà biết, oán thù ba đời, thật không ai xa lạ, đều là bà con thân thích, quyến thuộc chúng ta cả.
Vậy nên biết, quyến thuộc là nhóm oan gia, chúng ta không thể không hết lòng ân cần sám hối, chí tâm đầu thành đảnh lễ Tam bảo. Nguyện vì tử khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp ở trong sáu đường, đã kết oán thù cùng nhau, hoặc là oán thù hay không phải là oán thù, hoặc khinh hoặc trọng, hôm nay hoặc ở trong đường địa ngục, đường ngã quỉ, đường súc sanh, đường a tu la, hay ở trong nhân đạo; hoặc ở trên các cõi Trời, hoặc ở trong các loài Tiên hay ở trong vòng bà con quyến thuộc của chúng ta; như thế những người oán thù và quyến thuộc của các người ấy trong ba đời, ngày nay chúng con tên . . . xin đem tâm từ bi, tâm không phân biệt oán thân, tâm như tâm Phật, nguyện như nguyện Phật, xin thay thế hết thảy chúng sanh ấy mà quy y Thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Đức Phật
Nam mô Bảo Tích Phật
Nam mô Hoa Thiên Phật
Nam mô Thiện Tư Nghị Phật
Nam mô Pháp Tự Tại Phật
Nam mô Danh Văn Ý Phật
Nam mô Lạc Thuyết Tụ Phật
Nam mô Kim Cang Tướng Phật
Nam mô Cầu Lợi Ích Phật
Nam mô Du Hý Thần Thông Phật
Nam mô Ly Oán Phật
Nam mô Đa Thiên Phật
Nam mô Di Lâu Tướng Phật
Nam mô Chúng Minh Phật
Nam mô Bảo Tạng Phật
Nam mô Cực Cao Hạnh Phật
Nam mô Đề sa Phật
Nam mô Châu Giác Phật
Nam mô Đức Tán Phật
Nam mô Nhật Nguyệt Minh Phật
Nam mô Nhật Minh Phật
Nam mô Tinh Tú Phật
Nam mô Sư Tử Tướng Phật
Nam mô Vi Lam Vương Phật
Nam mô Phước Tạng Phật
Nam mô Khí Âm Cái Bồ tát
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận như không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Đại địa Bồ tát lực, hết thảy Hiền Thánh lực, khiến cho cha mẹ, bà con chúng con ở trong sáu đường, nếu người nào có oán thù và quyến thuộc các người ấy đều đồng thời vân tập đến Đạo tràng nầy, cùng nhau sám hối tội đời trước, giải các oán thù đã kết. Nếu người nào thân hình bị câu thúc, trở ngại không thể đến được, nguyện xin nhờ thần lực của Tam bảo, thâu nhiếp tinh thần của các người ấy, khiến họ đến được Đạo tràng, đem lòng từ bi thọ lãnh sự sám hối của chúng con ngày nay, nguyện mong giải thoát hết thảy oán thù.
Đại chúng trong Đạo tràng đều nên tâm niệm nói lời nầy:
Chúng con tên . . .  từ vô thỉ, khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối cha mẹ nhiều đời bà con nhiều kiếp, chú bác cô dì, quyến thuộc nội ngoại, vì gốc ba độc ([5]) khởi ra mười nghiệp ác, hoặc vì không biết hoặc vì không tin, hoặc vì không tu, bởi vô minh che lấp trí huệ nên sanh ra oán kết, đối với cha mẹ, bà con cho đến cả trong lục đạo cũng có oán thù.
Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì giận hờn, hoặc vì tham ái, hoặc vì ngu si, do gốc ba độc mà tạo ra các tội. Tội ác như vậy, vô lượng vô biên, hổ thẹn, sám hối, nguyện xin xả thí hết.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà cửa, hoặc vì tiền của mà sanh ra nghiệp oán thù, đối với bà con, cha mẹ đem tâm sát hại đủ điều. Những tội sát ấy không thể kẻ xiết, sanh ra oán thù không bao giờ hết. Ngày nay hổ thẹn, tỏ bày sám hối, nguyện xin cha mẹ, sáu dòng bà con, hết thảy quyến thuộc, đem lòng từ bi cho chúng con sám hối, xả bỏ tất cả tội lỗi, không còn tâm oán hận nữa. Cho đến trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, thập ác, ngũ nghịch, chúng con đều có làm cả; vì vọng tưởng điên  đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra hết thảy tội.
Những tội như vậy vô lượng vô biên, hoặc đối với cha mẹ mà khởi ra, hoặc đối với anh em, chị em mà khởi ra, hoặc đối với cô gì, chú bác mà khởi ra, từ khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối với lục thân quyến  thuộc mà khởi ra oán thù.
Những tội như vậy vô lượng vô biên. Tội nhân khổ quả như thế phải trả báo, chịu hành phạt, kiếp số lâu mau, oán kiết nhiều ít, chỉ có hết thảy chư Phật chư Dại Bồ tát trong mười phương mới thấy hết, biết hết.
Như chỗ chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết, tội lượng nhiều ít, oán thù bao nhiêu, thời gian dài ngắn, đến đời vị lai mới thọ lãnh sự trả thù ấy; ngày nay chúng con rất hổ thẹn, nghẹn ngào, đau khổ, tự trách tự hối, xin cải vãng tu lai, không dám làm nữa.
Nguyện xin cha mẹ, bà con quyến thuộc, tất cả thân nhân, đem tâm nhu nhuyến, tâm điều hòa, tâm lạc thiện, tâm hoa hỷ, tâm phò hộ, tâm như tâm Phật, cho chúng con xin . . .  sám hối; xả bỏ tất cả tội lỗi cho chúng con không tưởng đến oán thân nữa.
Lại nguyện xin cho cha mẹ bà con tất cả quyến thuộc nếu có bị ai oán thù trong lục đạo, cũng nguyện xin tất cả chúng sanh trong lục đạo đồng chung xả bỏ oán thù.
Hết thảy oán thù trong ba đời nhất thời sạch hết. Từ nay trở đi cho đến ngày thành Đạo, vĩng biệt tam đồ, tuyệt bốn ác thú; tất cả đều hòa hiệp như nước và sữa, tất cả đều không chướng ngại, như hư không rộng rãi, hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc Từ bi. Mọi người đều tu tập vô lượng trí huệ, thành tựu tất cả công đức, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu Bồ tát đạo không biết mỏi mệt. Tâm đồng như tâm Phật, nguyện đồng như nguyện Phật, được pháp tam mật ([6]) của chư Phật, đủ năm phần pháp thân, cứu cánh vô thượng Bồ đề, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã giải oán kết với cha mẹ rồi thứ lại nên giải oán kết với Sư trưởng.
Từ bậc Đại thánh trở xuống, tâm thể chưa được hoàn toàn viên tịch, vô sanh pháp nhẫn ([7]), còn bị ba tướng thiên diệt.
Ở địa vị đẳng giác rồi, Phật còn phương tiện dùng lời khổ khắc, để cho những chúng sanh ác độc nhân đó mà ngộ đạo. Bậc Minh Đức giáo hóa quần sanh còn nhờ lời khổ khắc ấy, huống gì phàm phu, cách tuyệt cảnh thanh tịnh, làm sao khỏi oán.
Nay thiện ác còn phức tạp, minh bạch chưa phân, làm sao tránh khỏi sự sai lầm của tam nghiệp, cho nên nghe lời này phải hổ thẹn.
Đối với ơn đức Sư trưởng phải tự trách mình, lòng nên hổ thẹn, không nên nghi ngờ mà sanh ác tâm.
Trong kinh Phật dạy: “Tuy xuất gia, nhưng chưa được giải thoát, dầu xuất gia cũng không nên tự phụ mình không có điều ác. Người tại gia cũng không nên tự cho mình hoàn toàn không có điều thiện”.
Vả thối, không nên nói việc ấy nữa. Hãy nghe lời Phật dạy trong kinh:
Phật bảo Đại chúng: “Các ngươi nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng. Cha mẹ tuy sanh thân nầy, nuôi dưỡng, dạy bảo, nhưng thể làm cho thân nầy ra khỏi ba đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn, khuyến dụ dẫn dắt kẻ sơ cơ, cho được xuất gia, rồi truyền trao cho đại giới (giới Tỳ kheo). Đó tức là kẻ sơ cơ đã hoài thi La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa đau khổ sanh tử và được yên vui Niết bàn. Sư trưởng có ơn đức xuất thế ấy, ai hay báo đáp? Nếu người nào chung thân hành đạo, đó chỉ là tự lợi, chớ chưa phải báo đáp ơn thầy”.
Phật dạy: “Bạn lành trong thiên hạ không ai bằng Sư trưởng”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật dạy ơn đức Sư trưởng nặng như thế, nhưng chúng con chưa từng khi nào phát tâm nghĩ đến. Trái lại, có khi Sư trưởng dạy bảo còn không tin, không lãnh, cho đến khi nói lời thô tháo sanh tâm phỉ báng ngang ngược thị phi, làm suy đồi Chánh pháp.
Những tội lỗi như thế làm sao thoát được Tam đồ. Khổ báo ấy không ai thay thế! Đến lúc chết rồi, vui đi khổ đến; tinh thần thảm não, tâm ý hôn mê, tinh thần không sáng suốt, năm căn tán loạn, muốn đi chân không thể bước; muốn ngồi thân thể yên; giả sử muốn nghe thuyết pháp tai không thể nghe; muốn xem cảnh đẹp, mắt không thể thấy. Ngay lúc bấy giờ muốn trở lại sự lễ sám hôm nay cũng không được; chỉ có những cảnh tượng rùng rợn hung ác trong địa ngục hiện ra mà thôi.
Sở dĩ trong kinh Phật dạy: “Người ngu si tự thị không tin tội phước, hủy báng Sư trưởng, ghen ghét tật đố. Những người như vậy là Ma vương trong Phật pháp, là dòng giống địa ngục, tự kết oán thù, chịu quả đau khổ vô cùng”.
Như Hoa Quang Tỳ kheo khéo thuyết pháp bí yếu, có một đệ tử thường ôm lòng kiêu mạn, Hòa thượng dạy bảo không tin, không nghe, lại nói thế nầy: “Đại Hòa thượng của  ta không có trí huệ, thường hay tán thán những việc trống rỗng như hư không. Tôi nguyện đời sau không thấy Ngài nữa”.
Người đệ tử ấy, từ ngày đó pháp nói phi là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Tuy trì cấm giới không hủy phạm, nhưng vì hiểu lầm lời thầy nên sau chết rồi, trong một nháy mắt, liền đọa A tỳ địa ngục, tám mươi ức kiếp, thường chịu đại thống khổ.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy thế ấy, mọi người há không sợ hãi sao?
Chỉ đối với Hòa thượng sanh một lời ác, còn đọa xuống A tỳ địa ngục tám chục ức kiếp, huống nữa từ khi xuất gia trở lại cho đến ngày nay, tội lỗi đối với Hòa thượng đã sanh ra ác nghiệp vô lượng vô biên. Quyết định bỏ thân nầy sẽ đồng tội với người đệ tử kia, sa xuống địa ngục, không còn nghi gì nữa.
Vì sao vậy? – Vì Hòa thượng và A xà lê thường đem tâm dạy bảo, nhưng chúng con chưa từng đúng như pháp mà tu hành. Đối với các bậc Sư trưởng phần nhiều chúng con hay sanh lòng trái nghịch, hoặc các Ngài cung cấp cho mà không tự biết chán biết đủ, hoặc thầy giận đệ tử, hoặc đệ tử giận thầy, trong ba đời, sự hỷ nộ vô lượng. Những tội như vậy không thể kể xiết.
Trong kinh Phật dạy: “Sanh một lòng sân, oán thù vô lượng”.
Những oán thù ấy không những trong sáu dòng bà con, mà sư đồ, đệ tử cũng hiềm hận lắm lắm.
Lại còn những lúc đồng phòng chung ở đối với các bậc thượng tọa, trung tọa, hạ tọa, chúng con không thâm tín sự xuất gia là pháp viễn ly sanh tử, không biết nhẫn nhục là hạnh an lạc không biết bình đẳng là đường vào Bồ đề, không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất thế, thầy trò đồng phòng chung ở, vì kiết sử phoền não, nghiệp chướng chưa hết nên hay trái chống nhau, tâm phân biệt đôi nhiên loạn khởi, nên tranh cãi nhau, sở dĩ vì vậy mà đời đời không hoà hiệp.
Lại nữa, người xuất gia, hoặc là đồng học nghiệp, hoặc là đồng sư chung học trong những ngày ấy, thấy người thắng tấn, chúng liền đem lòng độc hại, sân hận vì ganh tị mà không tự biết đó là sức trí huệ đời trước, cho nên mới có phước đức chúng con không có thiện căn, tâm hữu lậu của chúng con hay sanh cao hạ, hay ở đấu tranh, ít khi hòa hiệp, không thể nhường nhịn người dày đức, chúng con bạc phước, bèn hiềm hận nhau, mình quấy, chỉ nói xấu người, hoặc vì ba độc mà sàm báng nhau, không có tâm trung tín, không có ý cung kính, không khi nào nghĩ lại điều trái của chúng con. Cho đến cao tiếng lớn lời nói điều tho lỗ là điều Phật cấm; những điều Sư trưởng dạy bảo cũng không tín. Ccá bậc thượng, trung, hạ tọa, ai cũng ôm lòng phẫn hận chúng con cả. Vì phẫn hận nên lại thị phi nhau, thành ra trong ba đường ác phần nhiều đều có oán thù.
Thị phi oán thù như thế đều do thầy trò đệ tử chúng con gây ra.
Trong lúc đồng học chung ở thượng trung hạ tòa khởi lên một niệm tâm sâm hận, oán thù đã vô lượng.
Sở dĩ trong kinh Phật dạy: “Đời nay có ý giận nhau, ghen ghét nhau, tật đố nhau một chút, đời sau các xấu ấy càng thêm kịch liệt, thành ra oán thù lớn, huống nữa ác ý đã phát ra trọn đời thì nghiệp báo ấy kể sao cho xiết”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều không tự biết trong lục đạo đã gây thù kết oán với các bậc Sư trưởng thượng, trung, hạ tòa. Oán thù ấy không có ngày cùng tận
Sự oán thù này không có hình tướng; thời gian chịu khổ không có kỳ hạn, không có kiếp số, không thể chịu được. Vậy nên Bồ tát ma ha tát xả tâm oán thân, dùng tâm từ bi, tâm bình đẳng mà thâu nhiếp tất cả chúng sanh. Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau phát Bồ đề tâm, phát Bồ đề nguyện nên phải tập tu hạnh Bồ tát tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, tứ hoằng thệ nguyện, tứ nhiếp pháp đó là sự tu hành căn bổn của chư Phật và Bồ tát đã làm. Như chư Phật và Bồ tát đã làm chúng con ngày nay cũng tập làm, oán thân bình đẳng, hết thảy không ngại nhau.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thế phải cứu hộ hết thảy chúng sanh, khiến các chúng sanh đều được giải thoát.
Cùng nhau tâm đầu thành đảnh lễ Tam bảo, chúng con nguyện vì hết thảy chúng sanh, kể từ khi có thần thức trở lại đây, trải qua bao nhiêu đời xuất gia, đối với các bậc Hòa thượng, A xà lê, mà có oán thù đối với các bậc đồng đàn tôn chứng, mà có oán thù, đối với quyến thuộc đồng học, thượng, trung, hạ tòa, mà có oán thù, hoặc đối với có duyên hay vô duyên với Phật pháp mà có oán thù, rộng ra cho đến oán thù ba đời, trong tứ sanh lực đạo, khắp cùng mười phương, hoặc có oán thù hay không phải oán hoặc khinh hoặc trọng đối với quyến thuộc của các người oán thù ấy, đệ tử chúng con tên . . .  nếu có oán thủ với tất cả chúng sanh trong lục đạo đến đời vị lai hay trong hiện tại, chúng con chịu trả quả báo, hôm nay chúng con nguyện xin sám hối trừ diệt hết.
Nếu thấy tất cả chúng sanh trong lục đạo mỗi mỗi đều oán thù với nhau, ngày nay đệ tử chúng con tên . . .  xin đem lòng từ bi, không phân biệt oán thân khắp vì oán thù ba đời mà cầu xin sám hối. Nguyện xin cho các chúng sanh ấy xả bỏ oán thù, không còn nghĩ đến điều ác độc để hại nhau nữa, không còn ôm lòng độc ác đến với nhau nữa. Nguyện xin hết thảy chúng sanh, trong lục đạo cũng đồng xả bỏ oan thù, hết thảy đều hoan hỷ với nhau. Từ nay đã giải oán thù rồi, không còn sân hận nhau, mà cung kính nhau, tâm nghĩ báo ơn nhau, như tâm chư Phật, như nguyện chư Phật mọi người đều nhất tâm đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Kiến hữu Biên Phật
Nam mô Điện minh Phật
Nam mô Kim sơn Phật
Nam mô Sư tử Đức Phật
Nam mô Thắng tướng Phật
Nam mô Minh Tán Phật
Nam mô Kiên Tinh tấn Phật
Nam mô Cụ túc Tán Phật
Nam mô Ly úy Sư Phật
Nam mô Ứng Thiên Phật
Nam mô Đại Đăng Phật
Nam mô Thế Minh Phật
Nam mô Diệu Âm Phật
Nam mô Trì thượng Công đức Phật
Nam mô Ly Ám Phật
Nam mô Bảo tán Phật
Nam mô Sư tử Giáp Phật
Nam mô Diệt Quá Phật
Nam mô Trì Cam lồ Phật
Nam mô Nhơn Nguyệt Phật
Nam mô Hỷ Kiến Phật
Nam mô Trang Nghiêm Phật
Nam mô Châu Minh Phật
    Nam mô Sơn Đảnh Phật
Nam mô Danh Tướng Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, hết thảy Hiền Thánh lực khiến vô lượng oán thù ba đời, hoặc oán thù hay không phải oán thù và hết thảy chúng sanh trong hư không pháp giới đều phát tâm sám hối cởi mở oán kết; tất cả oán thù đều xả bỏ, không còn phân biệt oán thân tất cả đều hòa hiệp như nước với sữa, tất cả đều hoan hỷ như ở sơ địa, tất cả đều vô ngại như hư không. Từ nay cho đến ngày thành Phật hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, như chư Bồ tát.
Lại nữa, chúng con xin nhờ công đức nhân duyên lễ bái sám hối hôm nay để cởi mở oán kết. Nguyện xin chư vị Hòa thượng các bậc A xà lê đồng đàn Tôn chứng các vị đồng học và hết thảy quyến thuộc của các bậc thượng, trung hạ tòa, có oán thù cho đến các chúng sanh trong bốn loài sáu đường mỗi mỗi đều có oán thù ba đời, chưa được giải thoát, ngày nay hoặc còn ở trong thiên đạo, ở trong tiên đạo còn ở trong A tu la đạo, còn ở trong địa ngục, còn ở trong ngã quỉ đạo, còn ở trong súc sanh đạo, còn ở trong nhơn đạo hay còn ở trong bà con quyến thuộc, mười phương ba đời oán thù như vậy, hoặc oán thù hay không oán thù, mỗi người ấy và bà con quyến thuộc của các người ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tất cả tội chướng, nguyện đều tiêu diệt, tất cả oán thù hoàn toàn giải thoát, kiết tập phiền não hằng được thanh tịnh, tránh xa bốn ác thú, tự tại thọ sanh, niệm niệm giải thoát, tâm tâm tự tại, sáu ba la mật đầy đủ trang nghiêm, hạnh nguyện thập địa, hoàn toàn viên mãn, được mười trí lực ([8]) của Phật, thần thông vô ngại, chứng quả Bồ đề thành bậc Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đại tràng biết rõ trên đây đã và oán thù ba đời mà giải oán thích kiết rồi. Từ nay trở xuống, riêng từng cá nhơn phải tự trong sạch, phải hết lòng cùng nhau tự xét: Vì sao mà không được giải thoát?
Nghĩ về trước, không thấy được đức Phật đối diện thọ ký cho mình suy sau cũng không nghe được một pháp âm của Phật phô diễn. Bởi vì tội nghiệp sâu dày, oán kiết kiên cố cho nên không những không thấy được Phật đời trước, Phật đời sau, các vị Bồ tát và Hiền Thánh mà còn sợ e không nghe được âm thanh truyền hưởng vang dội của Tam Tạng kinh điển nữa là khác. Xa cách Phật pháp thì ác đạo và thù oán không do đâu mà giải thoát. Bỏ thân mạng nầy rồi chìm xuống biển khổ luân chuyển ba đường trải khắp ác thú, biết bao giờ trở lại được thân người?
Suy nghĩ như vậy mới thật là đau lòng, tâm tư như vậy mới thật là khổ trí.
Chúng con được hạnh phúc may mắn, mong nhờ thuần phong của Phật, nên cái ái từ thân xả gia ly tục, không còn tưởng nhớ gì nữa há lại không tranh thủ thời gian để cầu giải thoát. Nếu ý trí không kiên cường, quyết liệt chịu khổ, không còn lo sợ, thoạt vậy thân lâm trọng bệnh thân trung ấm hiện ra, thì ngưu đầu, ngục tốt, la sát, a bàng, hình tướng dễ sợ thình lình tìm đến, gió phong đao xẻ thân, tinh thần sợ hãi, tán loạn, bà con khóc lóc cũng không hay biết. Ngay lúc bấy giờ sanh một niệm thiện tâm, cầu lễ sám như ngày nay cũng không thể được, chỉ thấy vô lượng đau khổ trong ba đường ác hiện ra.
Ngày nay Đại chúng đều phải nỗ lực tu tập cho kịp thời; nếu cứ tùy ý phóng túng thì chí hướng thượng phải chậm trễ; cho nên phải cố gắng chịu khổ mà dõng mãnh tiến lên.
Vì thế trong kinh có dạy: “Từ bi là Đạo tràng vì nhẫn nhục chịu khổ vậy”. Phát tâm tu theo Đạo tràng nầy thì mọi việc đều xong xuôi”.
Vậy nên biết rằng:”Vạn thiện được trang nghiêm đều nhờ sự cố gắng nhẫn nại; cũng như muốn qua bể cả, phải nương nhờ ghe thuyền. Nếu có tâm cầu an vui mà không làm việc gây nhơn cầu vui thì không thể có kết quả an vui. Lý và sự phải đi đôi với nhau. Người hết lương thực mà chỉ mơ tưởng cao lương mỹ vị tưởng suông như vậy nào có ích gì cho sự đói khát, cần phải làm thế nào cho có cao lương mỹ vị thật sự mới được.
Vậy muốn cầu có quả tốt đẹp nhiệm mầu quyết phải lý và sự đồng hành, không thể thiếu một.
Đại chúng phải cùng nhau sanh tâm tăng thượng, phát ý hổ thẹn mà sám hối diệt tội giải các oán kiết. Trái lại cứ mê mờ theo thói cũ thì chưa biết ngày nào tỏ ngộ. Nếu mọi người đều giải thoát mà ta còn trầm luân thì ăn năn không kịp.
Đại chúng nhất tâm đầu thành đảnh lễ quy y thế gian, Đại từ bi phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Định nghĩa Phật
Nam mô Thí nguyện Phật
Nam mô Bảo Chúng Phật
Nam mô Chúng Vương Phật
Nam mô Du Bộ Phật
Nam mô An ổn Phật
Nam mô Pháp Sai Biệt Phật
Nam mô Thượng Tôn Phật
Nam mô Cực Cao Đức Phật
Nam mô Thượng Sư Tử âm Phật
Nam mô Lạc Hý Phật
Nam mô Long Minh Phật
Nam mô Hoa Sơn Phật
Nam mô Long Hỷ Phật
Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật
Nam mô Đại danh Phật
Nam mô Thiện Lực Phật
Nam mô Đức Man Phật
Nam mô Long Thủ Phật
Nam mô Thiện Hành Ý Phật
Nam mô Nhơn Trang Nghiêm Phật
Nam mô Trí Thắng Phật
Nam mô Vô Lượng Nguyệt Phật
Nam mô Thực Ngữ Phật
Nam mô Nhật minh Phật
Nam mô Dược Vương Bồ tát
Nam mô Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảt Tam bảo đệ tử chúng con tên . . .  tích tập tội chướng sâu dày hơn đại địa, bị vô minh che lấp tâm tánh, trong đêm dài mù mịt, do ba độc mà tạo nhơn thù oán, nên mê muội, chìm sâu trong ba cõi khong có ngày ra.
Ngày nay nhờ sức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát mới mong giác ngộ, sanh tâm hổ thẹn chí thành cầu xin tỏ bày sám hối. Nguyện xin chư Phật, chư đại Bồ tát dủ lòng  từ bi thâu nhiếp chúng con, đem sức đại trí huệ, sức bất tư nghì, sức vô lượng tự tại, sức hàng phục tứ ma, sức diệt trừ phiền não, sức giải oan, kiết, sức độ thoát chúng sanh, sức an ổn chúng sanh, sức giải thoát địa ngục, sức tế độ ngã quỉ, sức cứu vớt súc sanh, sức nhiếp hóa A tu la, sức nhiếp thọ nhơn đạo, sức tận chư Thiên chư Tiên hữu lậu, sức vô lượng vô biên công đức vô lượng Vô tận trí huệ, nhờ những sức lực ấy khiến các chúng sanh có oán thù trong bốn loài sáu đường, đồng đến Đạo tràng thọ lãnh sự sám hối của chúng con hôm nay.
Chúng con tên . . .  xả bỏ tất cả sự thù oán, không còn tư tưởng oán thù. Những nghiệp oán thù đã kết đều được giải thoát. Hằng lìa tám nạn khổ, không còn bốn ác thú, thường gặp được chư Phật, nghe Pháp, ngộ Đạo, phát tâm Bồ đề, tu nghiệp xuất thế. Tứ Vô lượng tâm, sáu Ba la mật hết lòng tu tập, tất cả hạnh nguyện đều được viên mãn, đồng lên Thập địa, đồng vào Kim cang, đồng thành Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên nhận thấy rằng: Oán thù theo nhau đều do ba nghiệp ([9]) đày đọa con người tu hành phải chịu khổ báo, khó chứng đạo quả.
Đã biết nguồn gốc đau khổ đều do ba nghiệp thì phải dõng mãnh diệt trừ ba nghiệp. Điều kiện thiết yếu dùng để diệt khổ, duy chỉ có phương pháp sám hối. Cho nên trong kinh Phật khen ngợi rằng: “Ở đời chỉ có hai hạng người mạnh nhất: Một là hạng người không tạo tội; hai là người tạo tội rồi mà biết ăn năn, sám hối.
Ngày nay Đại chúng muốn sám hối, thân tâm đều phải trong sạch, y phục chỉnh tề, sanh lòng hổ thẹn, buồn thảm ảo não, sanh hai niệm tâm thì tội gì cũng diệt, phước gì cũng sanh.
Những gì là hai?
Một là biết hổ; hai là biết thẹn. Hổ là xấu hổ với trời. Thyẹn là thẹn thùng với người. Hổ là tự mình hay sám hối, diệt trừ các oán thù. Thẹn là hay dạy bảo người cởi mở các sự trói buộc. Hổ là hay làm các điều thiện. Thẹn là hay tùy hỷ các việc thiện của người. Hổ là tự xấu hổ trong tâm. Thẹn là phát lồ, tỏ bày tội lỗi với người.
Nhờ hai pháp ấy mà người tu hành được pháp an vui vô ngại.
Ngày nay đã sanh tâm đại hổ thẹn, làm lễ đại sám hối, nên phải hết lòng cầu xin Tứ sanh Lục đạo. Vì sao vậy?
Vì trong kinh Phật dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều là bà con quyến thuộc với nhau, hoặc đã từng làm cha mẹ, hoặc đã từng làm Sư trưởng, cho đến hoặc đã từng làm anh em chị em với nhau. Hết thảy chúng sanh đều như thế. Bởi vô minh che lấp chơn tánh nên không biết nhau. Vì không biết nên hay sanh ra xúc não và oán thù nhau mãi mãi.
Ngày nay Đại chúng đã hiểu biết ý ấy, nên phải hết lòng thành khẩn tha thiết dụng tâm, quyết khiến một niệm tâm cảm mười phương Phật, một lạy đoạn trừ vô lượng oán thù.
Đại chúng đầu thành đạnh lễ quy y Thế gian đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Định Ý Phật
Nam mô Vô Lượng Hình Phật
Nam mô Minh Chiếu Phật
Nam mô Bảo Tướng Phật
Nam mô Đoạn Nghi Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Bất Hư Bộ Phật
Nam mô Giác Ngộ Phật
Nam mô Hoa Tướng Phật
Nam mô Sơn Chủ Vương Phật
Nam mô Đại Oai Đức Phật
Nam mô Biến Kiến Phật
Nam mô Vô Lượng Danh Phật
Nam mô Bảo Thiên Phật
Nam mô Trú Nghĩa Phật
Nam mô Mãn Ý Phật
Nam mô Thượng Tán Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
    Nam mô Vô Cầu Phật
Nam mô Phạm Thiên Phật
Nam mô Hoa Minh Phật
Nam mô Thân Sai Biệt Phật
Nam mô Pháp Minh Phật
Nam mô Tận Kiến Phật
Nam mô Đức Tịnh Phật
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Nguyện xin Tam bảo đồng gia tâm nhiếp thọ chúng con.
Chúng con tên . . .  cầu xin: Những điều sám hối đều được diệt trừ, đều được thanh tịnh.
Lại nguyện xin cho những người đồng sám hối hôm nay từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tất cả oán thù đều được giải thoát, tất cả thống khổ đều được tiêu diệt hoàn toàn; kiết tập phiền não hằng được thanh tịnh. Xa lìa bốn ác thú, tự tại thọ sanh đích thân hầu hạ chư Phật, được Phật thọ ký lục độ, tứ đẳng, nhất thời đồng tu, đủ bốn biện tài, được mười trí lực, tướng tốt nghiêm thân, thần thông vô ngại, vào Kim cang tâm. thành bậc Chánh giác. 
Ngày nay Đi chúng đng nghip trong Đo tràng trước hết là hướng v nơi t sanh lc đo mà sám hi ác nghip ca thân.
Kinh dạy rằng:
“Có thân thời có khổ không thân thời không khổ”.
Thế thì thân nầy là nguồn gốc của khổ.
Những ác báo khốc liệt trong ba đường đều do thân mà có. Chứ chưa thấy việc gì người làm mình chịu, hay mình làm người chịu. Mình làm mình chịu. Mình gây nhơn mình tự chịu quả.
Nếu tạo thành một nghiệp, tội đã không bờ bến, huống nữa chung thân làm ác, tội biết bao nhiêu?
Nay ta chỉ biết có thân ta, không biết có thân người, chỉ biết có thân ta đau khổ, không biết có người đau khổ.
Chỉ biết có ta cầu an vui; không biết người cũng cầu an vui.
Vì ngu si nên chúng ta sanh tâm bỉ ngã, sanh tưởng oán thân, nên có oán thù cùng khắp lục đạo.
Nếu không giải oán kiết thì biết lúc nào ra khỏi lục đạo; cứ ở mãi trong ấy kiếp nầy sang kiếp khác, há không đau lòng sao?
Hôm nay Đại chúng khởi tâm dõng mãnh sanh đại hổ thẹn, làm lễ đại sám hối, quyết lòng khiến một niệm cảm mười phương Phật, một lạy đoạn trừ vô lượng oán kiết. Đồng nhau một lòng tha thiết đảnh lễ quy y. Thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Nguyệt Diện Phật
Nam mô Bảo Đăng Phật
Nam mô Bảo Tướng Phật
Nam mô Thượng Danh Phật
Nam mô Tác Danh Phật
Nam mô Vô Lượng Âm Phật
Nam mô Vi Lam Phật
Nam mô Sư Tử Thân Phật
Nam mô Minh Ý Phật
Nam mô Vô Năng Thắng Phật
Nam mô Công Đức Phẩm Phật
Nam mô Nguyệt Tướng Phật
Nam mô Đắc Thế Phật
Nam mô Vô Biên Hạnh Phật
Nam mô Khai Hoa Phật
Nam mô Tịnh Cấu Phật
Nam mô Kiến Nhất Thế Nghĩa Phật
Nam mô Dõng Lực Phật
Nam mô Phú Túc Phật
Nam mô Phước Đức Phật
Nam mô Tùy Thời Phật
Nam mô Quảng Ý Phật
Nam mô Công Đức Kỉnh Phật
Nam mô Thiện Tịch Diệt Phật
Nam mô Tài Thiên Phật
Nam mô Khánh Âm Phật
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực và hết thảy Hiền Thánh lực khiến tất cả chúng sanh có oán thù trong tứ sanh lục đạo đồng đến đạo tràng. Mọi người trong Đại chúng đều sám tạ, tâm niệm miệng nói lời như thế nầy:
Chúng con tên . . .  từ vô thỉ vô minh trú địa (1) trở lại cho đến ngày nay, do vì nhân duyên ác nghiệp của thân, hoặc đối với các cõi trời, cõi người mà gây thù kết oán, hoặc đối với loài a tu la loài địa ngục mà gây thù kết oán; nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, và hết thảy Hiền Thánh lực, khiến các chúng sanh có tâm oán hận ba đời, ở trong tứ sanh lục đạo, hoặc có oán thù hay không phải oán thù hoặc khinh hoặc trọng, nhờ sự sám hối hôm nay mà tội lỗi đều tiêu diệt, thân tâm được thanh tịnh, không còn chịu đau khổ trong ba cõi. Sanh ra nơi nào cũng thường gặp được chư Phật.
Lại nữa, những người hiện đồng sám hối hôm nay, từ vô thỉ sanh tử trở lại cho đến ngày nay vì nhơn duyên ác nghiệp của thân mà gây oán kết thù với hết thảy chúng sanh trong ác đạo; hoặc do vì sân hận, hoặc do vì tham ái, hoặc do vì ngu si, từ ba độc căn (2) ấy mà sanh ra mười ác nghiệp: ưa giết hại cầm thú, đoạn mạng trâu dê v.v... hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà cửa, hoặc vì tiền tài, trở lại giết hại lẫn nhau. Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì lợi dưỡng mà giết lầm chúng sanh, hoặc giả làm thầy thuốc châm chích bách tánh, những tội như vậy, oán thù vô lượng; ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ cho đến ngày nay, hoặc làm chúng sanh đói khát, hoặc giựt lương thực của người, hoặc bức ép chúng sanh uống mặn, nuốt đắng, hoặc đoạn nước uống của người; bao nhiêu nghiệp ác như vậy, sanh ra oán thù, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, xa lìa minh sư thân cận bạn ác, do thân ba nghiệp tạo bao nhiêu tội, buông lòng giết hại người vô tội cách yểu uổng; hoặc phá triệt ao hồ, bít lấp ngòi rãnh, não hại các loài lớn bé dưới nước, hoặc thiêu đốt núi rừng, hoặc bủa giăng chải lưới sát hại tất cả chúng sanh dưới nước. Oán thù như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ cho đến ngày nay, tâm không từ bi, hạnh không bình đẳng, vặn căn bẻ móc, vào già ra non, (đong đầy gạt lưng) xâm lấn người hèn hạ, hoặc phá hoại làng xóm của người, dành giựt cướp đoạt, cắp trộm của người để cung cấp  cho mình, thiếu lòng thành tín, sát hại lẫn nhau. Những oán thù như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay tâm không từ bi, hạnh không từ bi, đối với chúng sanh trong sáu đường làm đủ mọi điều khổ sở, hoặc đánh đập bà con, không kể đạo tình quyến thuộc, hoặc trói buộc giam cầm ngục tối, hoặc tra khảo ngửa nghiêng, đâm bắn thương tích, hủy hoại thân thể, chém chặt tàn hại, lột da xẻ thịt, nấu nướng chiên xào.
Những oán thù như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do ba ác nghiệp của thân, bốn ác nghiệp của miệng, ba ác nghiệp của ý, tạo ra những tội tứ trọng (3) ngũ nghịch, bao nhiêu điều ác đều làm hết.
Tự ỷ mình tuổi cao mạng lớn, không sợ quỉ thần, chỉ sợ mình không hơn người, sợ người hơn mình, hoặc ỷ thế cao dòng lớn họ mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc ỷ mình nghe nhiều hiểu rộng mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì văn chương kỹ nghệ mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì khoe giàu, xa xỉ mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì ăn nói sắc xảo mà khinh người ngạo vật gây ra oán thù như vậy.
Những oán thù ấy hoặc đối bên hình tượng Phật Thánh, không tâm cung kính mà sanh ra, hoặc đối với Hòa thượng, A xà lê mà sanh ra, hoặc đối với các bậc Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa chung ở với nhau mà sanh ra; với quyến thuộc của những người đồng tu học mả sanh ra, hoặc đối với cha mẹ bà con thân thích mà sanh ra.
Những oán thù như vậy, vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ đến ngày nay, hoặc đối với các loài trời, loài người mà sanh thù kết oán, hoặc đối với loài a tu la, loài địa ngục mà sanh thù kết oán, hoặc đối với các loài súc sanh, loài ngã quỉ mà sanh thù kết oán, rộng ra cho đến đối với hết thảy các loài chúng sanh trong mười phương mà gây thù kết oán.
Những tội ác ấy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì tật đố, hoặc vì siểm khúc để cầu cho mình hơn người, hoặc vì danh dự, hoặc vì quyền lợi mà theo ngoại đạo tà kiến không biết hổ thẹn, gây thù kết oán như vậy, hoặc nặng hoặc nhẹ, tội nhơn khổ quả, số lượng nhiều ít, chỉ có chư Phật, chư đại Bồ tát mới thấy hết biết hết.
Nguyện xin chư Phật Đại Bồ tát dủ lòng thương xót chúng con. Như chúng con từ vô thỉ trở lại đây đã tạo ra bao nhiêu tội lỗi, koặc tự làm, hoặc dạy người làm, hoặc thấy người làm sanh tâm tùy hỷ; hoặc chúng con tự lấy của Tam bảo, hoặc dạy người lấy của Tam bảo, hoặc thấy người lấy mà sanh tâm tùy hỷ, hoặc có che dấu hoặc không che dấu, các tội nói trên, như chỗ chư Phật, chư đại Bồ tát đã thấy, đã biết, tội lượng nhiều ít, đáng đọa địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, sa vảo các đường ác, biên địa hà tiện để chia các oán thù, ngày nay chúng con sám hối nguyện xin trừ diệt hết.
Thần lực của chư Phật không thể nghĩ bàn, xin Phật dủ lòng từ bi cứu vớt hết thảy chúng sanh.
Chúng con tên . . .  nay hướng về tứ sanh lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng hết thảy bà con quyến thuộc mà sám hối tội đã làm cởi mở oán thù. Nguyện xin Tam bảo khiến hết thảy chúng sanh trong lục đạo, có tâm oán thù chúng con, đều hoan hỷ xả bỏ tất cả oán thù, không còn sanh tâm phân biệt oán thân, đối với nhau đều vô ngại như hư không.
Nguyện xin từ nay cho đến ngày thành Phật đoạn trừ hết kiết tập phiền não . . .
Ba nghiệp thanh tịnh không còn oán hận, tùy ý sanh lên thiên cung bảo điện, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường hay tu hành, trăm phước nghiêm thân, vạn thiện đầy đủ, an trú vào nơi đại định Thủ Lăng Nghiêm, chứng thân kim cang. Trong khoảng một niệm, hiện thân khắp sáu đường, tế độ hết thảy chúng sanh đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã sám hối được thân tội, thì thân nghiệp được thanh tịnh. Còn lỗi của khẩu nghiệp nay phải sám hối. Khẩu nghiệp là cái họa môn của hết thảy oán thù. Cho nên các đức Phật đều dạy không được nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói dối, nói thêu dệt. Nên biết lời nói dua nịnh quanh co, hoa mỵ hay đem lại thị phi tai họa không phải là ít, mắc phải quả báo rất nặng.
Than ôi! người đời, tâm ôm lòng ác độc, miệng nói lời ác độc, do ba điều ấy mà hại chúng sanh, chúng sanh bị độc hại liền kết oán hận, thề quyết báo thù, hoặc đời nầy toại nguyện, hoặc chết rồi mang theo. Chúng sanh kết oán như vậy khắp cả lục đạo để báo thù nhau, không bao giờ cùng tận.
Báo thù nhau như vậy đều do túc nghiệp đời trước đã gây ra, chớ không phải vô cớ, không có nguyên nhơn.
Thân ba nghiệp, miệng bốn nghiệp. Những nghiệp ấy mới thật là nguồn gốc của tội ác.
Người tại gia không trung hiếu chết vào núi Thái sơn, chịu sự thảm khốc của lửa nóng nước sôi. Người xuất gia không vì Phật pháp sau sẽ sanh về chỗ của người ác thường ở để chịu oán thù. Oán thù theo nhau như thế đều do ba nghiệp.
Trong ba nghiệp ấy khẩu nghiệp nặng nhất, cho nên phải mắc đủ thứ quả báo đau khổ, trong đêm dài mù mịt mà không hay không biết.
Ngày nay Đại chúng trong đồng nghiệp trong Đạo tràng biết rằng chúng ta sở dĩ luân hồi mãi trong lục đạo đều do khẩu nghiệp, hoặc buông lời khinh khi thô tháo, miệng nói sắc xảo biện bác xảo lanh, nói lời phủ phiếm, dối trá quỉ quyệt, lời nói không đi đôi với việc làm, nên mắc phải ác báo nhiều kiếp không thôi.
Vậy Đại chúng đâu có thể không sợ hãi, không hết lòng sám hối, không tẩy trừ tội lỗi ấy đi.
Chúng con từ khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay khẩu nghiệp bất thiện, không tốt đối với tứ sanh lục đạo, cha mẹ Sư trưởng tất cả bà con, không có điều ác gì của các người ấy mà chúng con không tuyên truyền. Chúng con nói lời thô xẳn phát tiếng bạo hạnh hủy báng chê bai, bạn bè chơi nhỏi nhóm họp mà nói xấu, nói lời vô nghĩa. Chỉ không nói có, chỉ có nói không, thấy nói không thấy, không thấy nói thấy. Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe, làm nói không làm. không làm nói làm.
Nói ngược nói xuôi như vậy, đảo lộn trời đất, để lợi mình hại người dèm chê lẫn nhau.
Nói đến mình thì bao nhiêu phước đức đều quy tụ về cho mình. Nói đến người thì bao nhiêu đều ác độc đều đổ  xô về cho người.
Cho đến khen chê tố cáo Thánh Hiền, so lường vua tôi, cân nhắc cha con, cơ hiềm Sư trưởng, hủy báng thiện tri thức, vô đạo, vô nghĩa, không ngó lại tai nạn u ách ở đời tán hình mất mạng, đời sau thống khổ vĩnh kiếp mắc phải quả báo ác.
Vả chăng vừa cười giỡn đó, trong khoảnh khắc liền chịu vô lượng trọng tội, huống nữa, dùng lời ác mà làm hại cho tất cả.
  Đệ tử chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do khẩu ác nghiệp, đối với các loài trời, loài người mà có oán thù đối với loài a tu la loài địa ngục mà oán thù, đối với loài ngã quỉ, loài súc sanh mà có oán thù, đối với cha mẹ, Sư trưởng và tất cả bà con mà có oán thù, đệ tử chúng con tên . . .  do lòng từ bi, đồng tu như Bồ tát, đồng nguyện như Bồ tát, xin thay thế cho tất cả chúng sanh mà đảnh lễ quy y, thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.
Nam mô Tịnh Đoạn Nghi Phật.
Nam mô Vô Lượng Trì Phật.
Nam mô Diệu Lạc Phật
Nam mô Bất Phụ Phật.
Nam mô Vô Trú Phật.
Nam mô Đắc Xoa Ca Phật.
Nam mô Chúng Thủ Phật.
Nam mô Thế Quang Phật.
Nam mô Đa Đức Phật.
Nam mô Phất Sa Phật.
Nam mô Vô Biên Oai Đức Phật.
Nam mô Nghĩa Ý Phật,
Nam mô Dược Vương Phật.
Nam mô Đoạn Ác Phật.
Nam mô Vô Nhiệt Phật.
Nam mô Thiện Điều Phật.
Nam mô Danh Đức Phật.
Nam mô Dõng Đức Phật.
Nam mô Hoa Đức Phật.
Nam mô Kim Cang Quân Phật.
Nam mô Đại Đức Phật
Nam mô Tịch Diệt Ý Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô Thiện Trú Phật
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát
Nam mô Diệu Âm Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hêt thảy Tam bảo.
Nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, Hiền Thánh lực, khiến tất cả chúng sanh trong tứ sanh lục đạo giác ngộ trở lại mà đến Đạo tràng.
Nếu người nào có thân hình bị câu thúc trở ngại, có tâm mà không đến được nguyện, Xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, Hiền Thánh lực thâu nhiếp tinh thần của những người ấy khiến tất cả đều đến được Đạo tràng nầy, thọ lãnh sự sám hối khẩu nghiệp của chúng con; từ vô thỉ vô minh trú địa trở lại cho đến ngày nay vì nhơn duyên của nghiệp ác khẩu, đối với chúng sanh trong lục đạo, tạo ra đủ mối oán thù, nguyện xin nhờ sức oai thần của Tam bảo khiến cho tất cả oán thù kết lại trong ba đời của tứ sanh lục đạo, nhơn sám hối nầy mà được trừ diệt.
Chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay hoặc vì sân khuể, hoặc vì tham ái, hoặc vì ngu si, từ ba độc căn, tạo mười ác hạnh, do bốn ác nghiệp của miệng tạo ra vô lượng tội. Hoặc do ác khẩu mà não loạn cha mẹ, Sư trưởng quyến thuộc, và tất cả chúng sanh; hoặc đối với cha mẹ khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với Sư trưởng khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với quyến thuộc khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với tất cả chúng sanh khởi ra nghiệp nói dối, hoặc thấy nói không thấy, không thấy nói thấy; hoặc nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; hoặc biết nói không biết, không biết nói biết; hoặc vì kiêu mạn, hoặc vì tật đố khởi ra nghiệp nói dối.
Những tội ác như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay khởi ra nghiệp hai lưỡi, thọ lãnh lời ác của người khác không thể che giấu; đến người nầy nói người kia, đến người kia nói người nầy; làm cho người nầy chia rẽ người kia, làm cho người kia đau khổ; hoặc vì cười giỡn, làm cho hai bên đấu tranh nhau, cốt nhục chia lìa; phá quyến thuộc của người, sàm loạn quân thần nhiễu hại tất cả.
Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, tạo tội ỷ ngữ, nói lời vô nghĩa, lời không lợi ích hoặc làm phiền não cha mẹ; hoặc làm phiền não Sư trưởng; hoặc làm phiền não bạn đồng học, cho đến đối với hết thảy chúng sanh trong lục đạo khởi tâm não hại.
Như vậy khẩu nghiệp khởi ra oán thù vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực và hết thảy Hiền Thánh lực, ngày nay chúng con sám hối, khiến cho tất cả oán thù ba đời trong bốn loài sáu đường, hết thảy sự gây thù kết oán hoàn toàn giải thoát, bao nhiêu tội nghiệp đều tiêu trừ, hoàn toản không trở lại gây thù kết oán nữa, không đọa trở lại trong ba đường ác nữa, rốt ráo không trở lại trong lục đạo hòng làm khổ sở độc hại nhau nữa.
Từ nay trở đi xả bỏ tất cả oán thù không còn phân biệt oán, thân, tất cả đều hòa hiệp như nước và sữa, tất cả đều hoan hỷ như ỏ sơ địa hằng làm pháp thân, từ bi quyến thuộc.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, không còn trở lại chịu quả báo trong ba cõi, đoạn ba nghiệp chướng, trừ năm bố úy, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật tăng tấn thâm tu, hành đạo đại thừa, vào trí huệ Phật. Hết thảy hạnh nguyện đầy như biển cả. Lục thông, Tam minh, thảy đều thông suốt, chứng pháp Tam mật đủ năm phần pháp thân, pháp kim cang huệ, thành quả chủng trí.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã được sám hối thân nghiệp rồi; khẩu nghiệp rồi; thứ lại sám hối ý nghiệp cho được thanh tịnh.
Hết thảy chúng sanh luân hồi sanh tử, không được giải thoát đều do ý nghiệp.
Thập ác ngũ nghịch kiết tập kiên cố quyết định đều do ý nghiệp. Cho nên Phật dạy rằng: Không đọan được tham dục sân nhuế và ngu si tà kiến, thì sau phải đọa địa ngục chịu khổ vô cùng. Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau nhận thấy rằng: cái tâm nó thức đẩy cái thức làm việc cũng như vua chỉ huy tất cả đình thần.
Miệng nói lời ác, thân làm việc ác, nên hay chiêu tập quả báo đau khổ kịch liệt trong sáu đường.
Nên biết rằng:  Thân bị hủy diệt tan mất, việc ấy do tâm tạo. Nay muốn sám hối trước phải đoạn trừ cái tâm, sau mới đánh dẹp cái ý. Vì cớ gì vậy? Kinh dạy rằng: “Chế ngự tâm lại một chỗ thì việc gì cũng xong”.
Vậy thì tâm trong sạch, đó là nguồn gốc của giải thoát; ý thanh khiết, đó là nền tảng của tiến hóa.
Được như thế, thì quả báo kịch liệt nơi tam đồ không lại, mà thống khổ vô cùng trong ác đạo cũng chẳng qua. Nhưng thân nghiệp, khẩu nghiệp thô thiển bên ngoài dễ trừ. Ý nghiệp rất vi tế bên trong thật là khó trừ. Như Lai là bậc Đại Thánh, nhất thế trí. Nhơn đối với thân, khẩu, ý mới không cần giữ gìn, phàm phu ngu muội mê lầm, dám không cẩn thận hay sao?
Nếu không đánh dẹp ba nghiệp làm cho ba nghiệp thanh tịnh thì chưa thấy được điều lành của ba nghiệp.
Vì thế nên kinh dạy rằng: “Phòng ngừa cái ý như canh gác cửa thành, giữ gìn cái miệng như bưng kín miệng bình”.
Như thế, chúng con đâu dám không giữ gìn ba nghiệp hay sao. Chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thọ thân nầy do vô minh phát khởi ra ái dục, làm cho thêm lớn đường sanh tử và cũng hay làm điều đủ mười hai điều đau khổ (4) tám tà (5) tám nạn, luân hồi lưu chuyển trong tam đồ lục đạo, không có chỗ nào là không trải qua. Chịu vô lượng khổ trong những chỗ như vậy đều do ý nghiệp cấu tạo sanh ra oán thù. Ý nghiệp niệm niệm phan duyên, chưa từng tạm xả, kích động lục căn, chạy khắp ngũ thể. Những ác nghiệp nặng hay nhẹ đều do ý tạo ra cả.
Nếu thân và khẩu chưa vừa ý thì tâm càng thêm giận dữ độc ác, bèn sát hại nhau, không thương xót.
Như chúng con hơi có chút ghẻ ngứa đã không thể chịu được, giả sử việc ấy ở nơi người khác thì cho sự đau khổ không bao nhiêu.
Thấy lỗi của người lòng muốn tuyên truyền nói ra, tự mình có lỗi không muốn người khác nghe biết. Có tâm niệm như vậy thật là xấu hổ.
Lại nữa ý khởi sân hận là mở đường rộng lớn, rước oán tặc vào tâm. Sở dĩ trong kinh Phật dạy rằng: “Giặc cướp công đức không gì hơn sân khuể”.
Lại nữa kinh Hoa Nghiêm dạy rằng:
Phật tử khởi lên một niệm sân tâm, thì trong tất cả ác tâm không có tâm nào ác hơn nữa.
–   Vì sao vậy?
–   Vì khởi lên một niệm sân thì phải chịu một trăm ngàn vạn sự chướng ngại.
Chướng không thấy Bồ đề
Chướng không nghe được chánh pháp
Chướng làm cho sanh vào đường ác
Chướng sanh ra nhiều tật bệnh. 
Chướng bị người hủy báng.
Chướng sanh ra ám độn.
Chướng làm mất chánh niệm.
Chướng làm cho ít trí huệ.
Chướng làm cho gần ác tri thức.
Chướng không ưa việc hiền lành.
Chướng làm cho xa chánh kiến.
Cho đến xa lìa chánh giáo của Phật, vào cảnh giới của ma, trái với thiện tri thức, các căn khiếm khuyết, sanh vào các nhà làm nghiệp ác, ở nơi biên địa.
Những chướng như vậy đều do sân hận, nhiều không thể kể xiết.
Chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, lẽ ra cũng có vô lượng vô biên ác tâm sân hận cho đến khởi sân hận không kể gì bà con họ hàng, huống nữa là đối với các chúng sanh trong lục đạo. Cho đến do sân hận mà gây ra phiền não mãnh liệt độc ác mà mình không tự biết. Chỉ về phần sự tướng bên ngoài không thực hiện được như ý muốn, chớ về tâm tưởng thì không có việc gì tâm không nghĩ đến.
Giá như điều ác gì tâm đã nghĩ được, đã thực hiện được như ý muốn thì không ai là không khỏi bị khốn khổ.
Bởi thế cho nên một phen thiên tử (vua) nổi giận thì thây phơi đầy đường ngàn dặm.
Từ vua trở xuống thì tự do ngang tàng quấy nhiễu chúng sanh, đánh đập, trói buộc những người có tội. Ngay lúc bấy giờ thì không thể chỉ vào đâu mà nói rằng: ta làm lành được, chỉ sợ đánh người không đau, không nặng, không khốc liệt mà thôi. Đó là sự ác độc của ý nghiệp chung cho tất cả loài hữu tình, trí ngu đều không khỏi. Giàu sang nghèo hèn như nhau mà chưa có một ngày nào biết hổ thẹn ăn năn. Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy phiền não sân hận của ý nghiệp rất sâu kín. Dầu chúng ta có muốn xả bỏ, nhưng gặp cảnh nó cũng sanh tâm, cùng với ác ý hoạt động, niệm niệm xúc chạm nhau, biết lúc nào thoát ly được khổ não ấy. Đại chúng đã biết tội nầy không thể để yên vậy mà không lo sám hối, thì ngày nay phải khấu đầu lễ bái, tỏ hết lòng thành sám hối tội sân hận, nguyện xin trừ diệt. Mọi người phải đầu thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.
Nam mô Vô Sở Phụ Phật.
Nam mô Nguyệt Tướng Phật.
Nam mô Điện Tướng Phật.
Nam mô Cung Kỉnh Phật.
Nam mô Oai Đức Thủ Phật.
Nam mô Trí Nhật Phật.
Nam mô Thượng Lợi Phật.
Nam mô Tu Di Đảnh Phật.
Nam mô Trị Oán Tặc Phật.
Nam mô Liên Hoa Phật.
Nam mô Ứng Tán Phật.
Nam mô Trí Thứ Phật.
Nam mô Ly Kiêu Phật.
Nam mô Na La Diên Phật.
Nam mô Thường Lạc Phật.
Nam mô Bất Thiểu Quốc Phật.
Nam mô Thiên Danh Phật.
Nam mô Kiến Hữu Biên Phật.
Nam mô Thâm Lương Phật.
Nam mô Đa Công Đức Phật.
Nam mô Bảo Nguyệt phật.
Nam mô Sư Tử Tướng Phật.
Nam mô Nhạo Thuyền Phật.
Nam mô Vô Sở Thiểu Phật.
Nam mô Du Hý Phật.
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát.
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo, đem từ bi lực, vô lượng vô biên tự tại lực, nạp thọ chúng con tên . . .  ngày nay hướng về tứ sanh lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng, hết thảy bà con mà sám hối bao nhiêu oán thù do ý nghiệp đã kết lại, hoặc có oán thù hay không phải oán thù, hoặc khinh hoặc trọng những oán đã kết rồi, nguyện xin sám hối trừ diệt, những oán chưa kết quyết không dám kết.
Nguyện xin nhờ sức Tam bảo đồng gia tâm nhiếp thọ, thương xót, che chở cho chúng con được giải thoát.
Đệ tử chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do vì nhơn duyên ác nghiệp của ý, nên đối với tứ sanh, lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng và tất cả bà con, mà kết các oán thù, hoặc khinh hoặc trọng, ngày nay hổ thẹn, tỏ bày sám hối, nguyện xin trừ diệt tất cả oán thù.
Lại từ vô thỉ cho đến ngày nay, y nơi gốc ba độc, khởi ra tâm tham, nhơn nơi tham sử, khởi ra tham nghiệp, hoặc u ẩn hay hiển hiện, cùng tận hư không giới, hễ nơi nào, lúc nào thấy người có của thì sanh tâm ác, nghĩ rằng: Ta sẽ lấy của ấy, cho đến của cha mẹ, của Sư trưởng, của bà con, của hết thảy chúng sanh, của chư Thiên, của chư Tiên, những của ấy đều cho là thuộc về ta cả.
Tội ác như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, tử vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, khởi ra sân nghiệp ngày đêm luôn luôn thiêu đốt thân tâm không có một giờ phút nào tạm thời dừng nghỉ. Có chút gì không bằng lòng, liền nổi giận đùng đùng, đem chúng sanh ra mà não hại đủ điều, hoặc roi gậy đánh đập, hoặc nhận chìm xuống nước, cho đến dùng cách xua đuổi, (bức bách) bỏ đói khát, trói buộc, treo lên trên cao hay nhốt vào phòng tối cho đến chết.
Những tội sân hận như thế vô lượng vô biên, gây ra oán thù không thể kể xiết, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, tùy thuận vô minh, làm những việc ngu si tạo tất cả điều ác; không có trí huệ chân chánh, tin theo lời tà, thọ lãnh pháp tà, những nghiệp si mê như vậy tạo ra oán thù vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trử diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, làm mười tà đạo (6), kết hết thảy oán thù, tạo tất cả ác nghiệp, niệm niệm phan duyên, chưa từng tạm xả, kích động sáu căn khởi các kiết nghiệp, hoặc thời thân khẩu chưa thỏa mãn thì tâm càng thêm độc ác, cho đến giỡn cười, gây ra thị phi. Không dùng tâm ngay thẳng làm việc theo người thường ôm lòng siểm khúc không biết hổ thẹn.
Những tội như vậy, vô lượng vô biên, ở trong lục đạo, chịu đại khổ não, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Đệ tử chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện, ý nghiệp bất thiện. Những ác nghiệp như vậy đối với Phật khởi ra tất cả tội chướng, đối với Pháp khởi ra tất cả tội chướng, đối với Bồ tát và Hiền Thánh khởi ra tất cả tội chướng. Những tội chướng như vậy vô lượng vô biên, ngày nay chí thành cầu xin sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân ba ác nghiệp, miệng bốn ác nghiệp, ý ba ác nghiệp, tạo ra tất cả tội ngũ nghịch, tứ trọng, ngày nay sám hối nguyện xin trử diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, sáu căn, sáu trần, sáu thức, vọng tưởng điên đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra tất cả các tội, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa tử vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, đối với nhiếp oai nghi giới (7), nhiếp thiện pháp giới (8), nhiếp chúng sanh giới (9), phần nhiều có hủy phạm, sau nầy thân hoại mạng chung phải đọa ba đường ác, ở trong địa ngục chịu vô lượng vô biên hằng sa thống khổ. Sau lại đọa vào ngã quỉ sẽ ngu si, không hiểu biết gì, thường bị đói khát, chịu các nhiệt não, rồi lại đọa làm súc sanh chịu vô lượng khổ, ăn uống thật bất tịnh, cơ hàn khốn khổ. Tội hết được sanh làm người, đọa vào nhà tà kiến, tâm thường siểm khúc, tin lời Tà, mất chánh đạo, chìm vào biển sanh tử không hẹn ngày ra.
Tất cả tội ác, oán thù ba đời như thế nói không thể xiết, chỉ có chư Phật mới thấy hết biết hết. Như chỗ chư Phật đã thấy đã biết, tội báo nhiều ít, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Nguyện xin chư Phật chư Đại Bồ tát đem đại từ bi lực, đại thần thông lực, như pháp điều phục chúng sanh lực khiến chúng con tên . . .  ngày nay sám hối tất cả oán thù liền được trừ diệt. Hết thảy chúng sanh trong lục đạo đã chịu trả oán thù rồi, hay chứa chịu trả oán thù, nguyện xin nhờ sức đại từ bi lực của chư Phật, chư đại Bồ tát và tất cả Hiền Thánh khiến hết thảy kẻ oán thù ấy hoàn toàn giải thoát. Từ nay trở đi cho đến ngày chứng quả Bồ đề, tất cả tội chướng hoàn toàn thanh tịnh không sanh vào đường ác, sanh về tịnh độ, bỏ sống oán thù, được sống trí huệ, bỏ thân oán thù được thân kim cang, bỏ ác đạo khổ, được Niết bàn vui, nhớ ác đạo khổ, phát bồ đề tâm, tứ đẳng lục độ thường được hiện tiền tứ biện lục thông được tự tại như ý, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ tu lên cho đến mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát vô biên chúng sanh.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nguyện xin cho tất cả chúng sanh đời quá khứ, đời hiện tại và cùng tận đời vị lai ở trong bốn loài, sáu đường, đều được nhờ sự sám hối hôm nay mà thanh tịnh, đồng được giải thoát, đồng đủ trí huệ, thần thông tự tại. Nguyện xin cho các chúng sanh ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thường thấy được pháp thân của chư Phật khắp mười phương, tận hư không giới, thường thấy thân tử ma kim sắc, ba mươi hai tướng tốt và tám chục vẻ đẹp của chư Phật, phân tán ra khắp mười phương cứu độ chúng sanh; thường thấy chư Phật phóng bạch hào tướng quang ở giữa chặn mày, tế độ chúng sanh đau khổ trong địa ngục.
Lại nguyện xin cho Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, nhờ công đức nhơn duyên sám hối thanh tịnh hôm nay mà từ nay trở đi bỏ thân nầy thọ thân khác, cũng không vào trong địa ngục để chịu những thống khổ, tiêu hình hoại thể, trong vạc nước sôi, lò lửa nóng không trải qua đường ngã quỉ mà chịu các thống khổ đói khát; cổ nhỏ bằng kim, bụng to bằng trống chầu; không trải qua đường súc sanh để đền nợ cũ, trả mạng xưa, chịu các sự phanh thây xẻ thịt, lôi kéo khốn khổ.
Nếu ở trong loài người, thì thân không mắc phải bốn trăm lẻ bốn bệnh khổ não, không chịu khổ đại hàn đại nhiệt khó nhẫn nại; không chịu khổ vì đao gươm, roi gậy đánh đập, thuốc độc, não hại khốn khổ; không gặp phải tai nạn đói khát khốn khổ.
Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi giữ giới trong sạch, không làm ô uế đạo tâm, thường tu nhơn nghĩa, niệm tưởng báo ơn, cúng dường cha mẹ như cúng dường Phật không khác, phụng sự Sư trưởng như đối chư Phật, kính trọng quốc chủ như thường trú Pháp thân, đối với mọi người như mình không khác.
Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, hiểu thấu nghĩa lý sâu mầu của chư Phật, tâm trí không sợ hãi, rõ thông đại thừa, thông suốt chánh pháp liền tự khai giải, không phải nhờ ai chỉ bày, một lòng kiên cố cầu đạo Bồ đề trở lại hóa độ vô biên chúng sanh, đồng như bậc chư Phật thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng ẩn thân hay hiện thân trong Đạo tràng xin chứng minh cho lời phát nguyện mảy mọc sau nầy:
Chúng con tên . . .   chánh nguyện:
Nguyện sanh về cảnh của thánh nhơn ở, thường hay kiến lập Đạo tràng, hưng hiển cúng dường, làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sanh. Nguyện thường được Tam bảo từ bi nhiếp thọ, thường có thế lực giáo hóa dìu dắt được dễ dàng, thường tu hành tinh tấn, không say đắm cục lạc ở đời; thường biết các pháp đều không có tự tánh; đối với người oán kẻ thân đều đem điều lành bình đẳng hóa độ cho đến Bồ đề tâm không thối chuyển.
Từ nay trờ đi, một mảy thiện tâm nào cũng nhờ thiện lực nầy mà thành tựu.
Lại nguyện sanh trong loài người, sanh vào nhà từ thiện. Lại lập từ bi Đạo tràng, cúng dường Tam bảo, điều thiện nỏ nhiệm nào cũng đem bố thí hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Nguyện cùng với Hòa thượng, A xà lê chung lo tu hành, không xa lìa nhau, trường trai khổ hạnh tâm không ái nhiễm, không lập gia đình, trung tín thanh bạch nhơn nhượng hòa bình, tổn mình lợi người, không cầu danh lợi. Lại nguyện xin xả thân nầy, không mong giảu thoát, sanh trong loài quỉ thần; nguyện làm vị đại lực Hộ pháp thiện thần, tế khổ thiện thần, không cần cơm áo, tự nhiên đầy đủ. Lại nguyện xin xả thân nầy không mong giải thoát, sanh trong loài súc sanh, thường ở núi sâu hang thẳm ăn cỏ uống nước không thấy thống khổ, khi ra khỏi rừng thì được an lành, không bị bắt nhốt trói buộc.
Lại nguyện xin xả thân nầy rồi không mong giải thoát, sanh trong loài quỉ đói, nguyện thân tâm an vui, không có các điều khổ não, giáo hóa những ngã quỉ đồng khổ, sám hối tội lỗi, phát tâm Bồ đề.
Lại nguyện xin xả thân nầy không mong giải thoát, sanh vào địa ngục, tự biết đời trước của mình, giáo hóa những người đồng khổ sám hối tội lỗi phát tâm Bồ đề.
Đệ tử chúng con tên . . .  nguyện thường tự nhớ sự phát tâm Bồ đề, làm cho tâm Bồ đề tương tục không gián đoạn.
Nguyện xin hết thảy chư Phật, chư Đại Bồ tát và hết thảy Thánh Hiền cùng khắp mười phương, dủ lòng từ bi chứng giám cho chúng con.
Lại nguyện cho chư Thiên, chư Tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ, chứng giám cho chúng con chí thành đảnh lễ quy y mười phương Tam bảo.
 
TÁN THÁN PHẬT VÀ CHÚ NGUYỆN
Đại  Thánh  Thế  Tôn,
Nguy  nga  rực  rỡ,
Tam  đạt (10) chiếu  suốt.
Vua  trong  các  Thánh.
Phân  thân  tế  vật,
Hiện  tọa  Đạo  tràng.
Trời  người  chiêm  ngưỡng,
Thọ  pháp  vô  cùng (11)
Bát  âm  vang  dội (12)  
Ma  quân  kinh  hoàng
Oai  chấn  Đại  thiên, (13)
Từ  hóa  lưu  phương. (14)
Bi  lực  độ  khắp,
Thâu nhiếp mười phương
Từ  hẳn  tám  khổ (15)
Đến  Bồ  đề  hương.
Cho nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, độ người vô lượng, hết khổ sanh tử.
Nay chúng con xin nhờ công đức nhơn duyên sám hối thanh tịnh và tán thán chư Phật nguyện cho tất cả chúng sanh trong tứ sanh lục đạo, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật
đều nhờ thần lực của Phật mà được tùy tâm tự tại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thiết kế Website bởi: Nhuận Huệ Ngọc